2022-11-14, 09:06 AM
Sư Hạnh Tuệ - Tứ Niệm Xứ
Sư Hạnh Tuệ giảng Tứ Niệm Xứ qua hai link:
https://www.youtube.com/watch?v=GNmmQjZ-nA4: Quán Thân
https://www.youtube.com/watch?v=WSgvftrReVw: Quán Thọ, Quán Tâm, Quán Pháp .
Tứ Niệm Xứ là 4 nơi để thiết lập Niệm, 4 nơi để ghi nhận với sự nhiệt tâm tỉnh giác và ghi nhớ .
Nhiệt tâm nghĩa là nỗ lực, tinh tấn, đẩy cái tâm mình lên chứ không phải là làm cái tâm yếu xìu .
Tỉnh giác (Sampajañña) (Ngài Chánh Thân) có nghĩa là:
Niệm: ghi nhớ
Diệt trừ những tham ưu ở đời: Để hành thiền TNX, trước hết phải giữ Giới . Người không giữ Giới không thể có tâm trong sạch để hành thiền .
Tham dự các khoá Thiền:
1/ Để lại những gánh nặng thế tục ở ngoài cổng trường Thiền
2/ Trong các khoá Thiền, việc đầu tiên là thọ Giới với hai hành động sau để có giới trong nền tảng trong sạch trước khi hành Chỉ và Quán (ở đây chúng ta nói đến TNX):
4/ Ngồi theo tư thế nghiêm túc .
Sư Hạnh Tuệ giảng Tứ Niệm Xứ qua hai link:
https://www.youtube.com/watch?v=GNmmQjZ-nA4: Quán Thân
https://www.youtube.com/watch?v=WSgvftrReVw: Quán Thọ, Quán Tâm, Quán Pháp .
Tứ Niệm Xứ là 4 nơi để thiết lập Niệm, 4 nơi để ghi nhận với sự nhiệt tâm tỉnh giác và ghi nhớ .
Nhiệt tâm nghĩa là nỗ lực, tinh tấn, đẩy cái tâm mình lên chứ không phải là làm cái tâm yếu xìu .
Tỉnh giác (Sampajañña) (Ngài Chánh Thân) có nghĩa là:
- Sống trong trạng thái thức tỉnh, không phải mê ngủ, ghi nhận cả hai tâm Thiện / Bất Thiện / không Thiện hay Bất Thiện .
- Điểm đặc biết của tỉnh giác được diễn tả như người lính gác ở biên cương lúc nào cũng ở trong trạng thái cảnh giác cao độ, quan sát .
Niệm: ghi nhớ
Diệt trừ những tham ưu ở đời: Để hành thiền TNX, trước hết phải giữ Giới . Người không giữ Giới không thể có tâm trong sạch để hành thiền .
Tham dự các khoá Thiền:
1/ Để lại những gánh nặng thế tục ở ngoài cổng trường Thiền
2/ Trong các khoá Thiền, việc đầu tiên là thọ Giới với hai hành động sau để có giới trong nền tảng trong sạch trước khi hành Chỉ và Quán (ở đây chúng ta nói đến TNX):
- sám hối những lỗi lầm trong quá khứ
- thọ Giới
4/ Ngồi theo tư thế nghiêm túc .
Tứ Niệm Xứ: Quán Thân
Thọ:
1/ thọ lạc (dễ chịu) và thọ khổ (khó chịu): trong hiện tại, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đang thọ lạc hay thọ khổ
2/ phân biệt sự dễ chịu này có liên quan đến Dục không .
Ví dụ: tâm hân hoan khi lễ Đức Thế Tôn không liên quan đến Dục, nhưng cảm thọ thích thú khi uống nước vì khát có liên quan đến Dục .
3/ sự khó chịu cũng vậy . Các cảm thọ về thân có liên quan đến Dục không .
Ví dụ: ưu tư lo lắng khi nấu ăn cho chư tăng không liên quan đến Dục, nhưng thọ khổ vì nóng nực có liên quan đến Dục Lạc .
4/ Xét cảm thọ này biến đổi không ngừng .
Khi ngồi đau quá, chịu hết nổi thì đứng dậy đi thiền . Lúc này cảm thấy dễ chịu . Đi một hồi từ dễ chịu chuyển qua khó chịu . Đau chân, đau lưng, chịu hết nổi, lại ngồi thiền .
Khi ngồi xuống, sẽ có cảm giác dễ chịu . Dần dần, ta lại cảm thấy khó chịu .
Như vậy, cảm thọ biến đổi không ngừng .
5/ Chúng ta phải tách thọ nhận được từ thân hay từ tâm .
Để ý xem nó là Tâm Tham hay là Tâm Sân:
Ghi nhận tâm có tham hay tâm có sân .
Khi ai đó mắng chửi mình,
Càng tu tập, tâm càng nhạy cảm . Mức độ nhạy cảm tuỳ thuộc vào sự thực hành của mỗi người .
1. Người ở bẩn, 7 ngày không tắm, sống gần cống rãnh, nếu nằm dưới đất vẫn không sao . Người tắm rửa sạch sẽ, khi ngón tay chạm đất sẽ thấy dơ bẩn .
2. Người sống với tham sân si rất nhiều, sẽ không phát hiện được tâm đang tham / sân / si . Đó là vì tâm bị ô nhiễm quá nhiều rồi, nay thêm một đống ô nhiễm nữa cũng vậy thôi .
Ví dụ: Nhờ quán tâm kỹ lưỡng,
Các tâm còn lại cũng vậy .
Cần quan sát:
Tâm Tham này có Dục đi kèm hay không . Nếu có, hãy ghi nhận: Tâm Tham này có Dục đi kèm . Ví dụ: ăn ngon cảm thấy thích thú, hãy ghi nhận "Tâm Tham có Dục đi kèm ." Thích thú trong việc hành thiền / học Pháp, là có Tham nhưng không dính dáng đến Dục .
Sách Tam Tạng Chỉ Nam dạy chúng ta nên có:
Quán Pháp đòi hỏi chúng ta có kiến thức về giáo lý Phật Pháp .
Ví dụ: Khi quán tâm Tham, phải biết cái Tham này từ đâu mà có .
Uống ly nước thấy ngon quá do lưỡi tiếp xúc với nước, do thân này mới có lưỡi, do đầu thai mới có thân tâm này, do tạo các Nghiệp Thiện Ác trong quá khứ mới đi đầu thai, do đi đầu thai nên mới có cái Thân cái Tâm này . Do cái Thân Tâm này, mình mới có cái miệng và có ly nước . Chính vì cái miệng và ly nước gặp nhau nên các cảm thọ nảy sinh . Do các cảm thọ này sinh ra chuyện thích thú . Do sự thích thú đưa đến sự dính mắc . Do dính mắc nên đưa đến phản ứng và đến thiện ác . Do thiện ác đưa mình đi tái sanh . Hễ còn tái sanh là không thể tránh KHỔ .
Phải quan sát tới mức độ như vậy:
Như vậy, chúng ta cần biết Bát Chánh Đạo:
Quan sát xem nội tâm đang bung xung loạn động hay đang lui sụt:
Kết Luận:
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành để phát triển Trí Tuệ, không phải là một công thức để tụng niệm . Tâm phải quan sát chuyện gì đang xảy ra và làm sao để giải quyết nó . Nhờ vậy mình thành thật với chính mình, có gì thì phát hiện cái đó, đề phòng nó, tách nó ra . Ở đây, chỉ có vấn đề, không có ai có vấn đề . Ví dụ: Một bà mẹ đứng trước cổng trường chửi xối xả: Nhận biết đây có tâm Sân, không có con người, có vấn đề nhưng không có con người đang gặp vấn đề . Như vậy, mình nhìn vấn đề bằng một cặp mắt tỉnh táo và thành thật với chính mình . Từ đó, mình không bị người ta dắt mũi chạy theo cảm xúc .
Khi thực hành Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là chúng ta đang thực hành Tứ Chánh Cần .
1/ Để ý đến trước mặt để theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra .
2/ Khi lái xe thuần thục, trước khi quẹo trái / phải, chúng ta tự động quẹo, không cần phải tự nhủ: trái, trái, trái hoặc phải, phải, phải . Tương tự, khi hành thiền, chúng ta biết rõ sẽ thở vào / ra (không cần ngôn ngữ) . Nếu cần, chỉ cần nhắc tâm một lần để tâm ghi nhớ . Cho nên, sự biết không cần ngôn ngữ .
3/ Biết hơi thở vào và biết hơi thở ra . Không phải: TÔI đang thở vào và TÔI đang thở ra .
8/ Không cần thiết phải biết hơi thở dài ngắn vì chưa đạt Tứ Thiền (Định) vì tiêu chuẩn lý tưởng trước khi thực hành TNX là đã chứng đắc Tứ Thiền . Cụ thể ở đây là Tứ Thiền Hơi Thở . Đó là lý do tại sao Chỉ và Quán đều có hơi thở .
4/ Sau khi ra khỏi hơi thở của Tứ Thiền (Định), chúng ta mới có thể thoải mái quan sát những đặc tính của hơi thở: hơi thở dài / ngắn . Chưa có Định mà phân tích đặc tính của hơi thở sẽ làm gián đoạn Định .
5/ Hai điều cần làm:
6/ Biết hít vào / thở ra chưa phải là thực hành TNX .
7/ Không nên nghĩ rằng: Tôi ngồi là tôi thiền, khi không ngồi tôi không thiền nữa . Hành thiền trong tất cả các oai nghi .
8/ Nếu thất niệm: Nhắc lại một lần, sau đó tiếp tục quan sát là đủ rồi . Trí panna là trí biết rõ đang đi; sự biết rõ đó không cần ngôn ngữ; biết nó rồi thì không cần phải diễn tả . Tương tự như vậy, biết tất cả các tiểu oai nghi đang xảy ra; toàn bộ đều có sự nhận biết . Và bản thân sự nhận biết đó không cần ngôn ngữ .
9/ Khi quan sát người khác cũng vậy: co tay duỗi tay, v.v. Từ đó nhận thức được bản chất của vũ trụ này là gì . "Toàn bộ chỉ là một khối tổng hợp ."
10/ Quán thân trên thân: Tổng hợp này đang đi / đứng / nằm /ngồi . Không có ai cả . Ở đây chỉ có sự ghi nhận, ghi nhớ đối tượng: từ Thân tới Tâm, từ Mình đến Người .
11/ Quan trọng khi hành thiền là biết cái gì đang diễn ra vậy .
12/ Cần thực hành những gì Sư đang hướng dẫn qua bối cảnh, thời gian và địa điểm để có kết quả.
2/ Khi lái xe thuần thục, trước khi quẹo trái / phải, chúng ta tự động quẹo, không cần phải tự nhủ: trái, trái, trái hoặc phải, phải, phải . Tương tự, khi hành thiền, chúng ta biết rõ sẽ thở vào / ra (không cần ngôn ngữ) . Nếu cần, chỉ cần nhắc tâm một lần để tâm ghi nhớ . Cho nên, sự biết không cần ngôn ngữ .
3/ Biết hơi thở vào và biết hơi thở ra . Không phải: TÔI đang thở vào và TÔI đang thở ra .
8/ Không cần thiết phải biết hơi thở dài ngắn vì chưa đạt Tứ Thiền (Định) vì tiêu chuẩn lý tưởng trước khi thực hành TNX là đã chứng đắc Tứ Thiền . Cụ thể ở đây là Tứ Thiền Hơi Thở . Đó là lý do tại sao Chỉ và Quán đều có hơi thở .
4/ Sau khi ra khỏi hơi thở của Tứ Thiền (Định), chúng ta mới có thể thoải mái quan sát những đặc tính của hơi thở: hơi thở dài / ngắn . Chưa có Định mà phân tích đặc tính của hơi thở sẽ làm gián đoạn Định .
5/ Hai điều cần làm:
- Quan sát sự sanh lên và diệt đi của hơi thở .
- Từ đó, nhận ra rằng chỉ có tấm thân này đang thở chứ không có ai đang thở .
6/ Biết hít vào / thở ra chưa phải là thực hành TNX .
7/ Không nên nghĩ rằng: Tôi ngồi là tôi thiền, khi không ngồi tôi không thiền nữa . Hành thiền trong tất cả các oai nghi .
8/ Nếu thất niệm: Nhắc lại một lần, sau đó tiếp tục quan sát là đủ rồi . Trí panna là trí biết rõ đang đi; sự biết rõ đó không cần ngôn ngữ; biết nó rồi thì không cần phải diễn tả . Tương tự như vậy, biết tất cả các tiểu oai nghi đang xảy ra; toàn bộ đều có sự nhận biết . Và bản thân sự nhận biết đó không cần ngôn ngữ .
9/ Khi quan sát người khác cũng vậy: co tay duỗi tay, v.v. Từ đó nhận thức được bản chất của vũ trụ này là gì . "Toàn bộ chỉ là một khối tổng hợp ."
10/ Quán thân trên thân: Tổng hợp này đang đi / đứng / nằm /ngồi . Không có ai cả . Ở đây chỉ có sự ghi nhận, ghi nhớ đối tượng: từ Thân tới Tâm, từ Mình đến Người .
- tỉnh táo, nhận thức vấn đề
- bản chất của nó là gì: biến đổi không ngừng, sanh diệt liên tục, là sự tổng hợp lắp ráp., không có TÔI.
- nhờ thấy rõ sự thật, sẽ đi đến nhàm chán .
- từ nhàm chán, đến ly tham
- từ ly tham, đến giải thoát .
11/ Quan trọng khi hành thiền là biết cái gì đang diễn ra vậy .
- Nhìn sự sanh diệt của nó thấy mình cũng vậy .
- Nhìn cái tổng hợp của nó và mình chợt nhận ra ở đây không có ai cả .
- Đơn thuần là sự chuyển động và quan sát mà thôi .
12/ Cần thực hành những gì Sư đang hướng dẫn qua bối cảnh, thời gian và địa điểm để có kết quả.
Tứ Niệm Xứ: Quán Thọ
Thọ:
1/ thọ lạc (dễ chịu) và thọ khổ (khó chịu): trong hiện tại, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đang thọ lạc hay thọ khổ
2/ phân biệt sự dễ chịu này có liên quan đến Dục không .
Ví dụ: tâm hân hoan khi lễ Đức Thế Tôn không liên quan đến Dục, nhưng cảm thọ thích thú khi uống nước vì khát có liên quan đến Dục .
3/ sự khó chịu cũng vậy . Các cảm thọ về thân có liên quan đến Dục không .
Ví dụ: ưu tư lo lắng khi nấu ăn cho chư tăng không liên quan đến Dục, nhưng thọ khổ vì nóng nực có liên quan đến Dục Lạc .
4/ Xét cảm thọ này biến đổi không ngừng .
Khi ngồi đau quá, chịu hết nổi thì đứng dậy đi thiền . Lúc này cảm thấy dễ chịu . Đi một hồi từ dễ chịu chuyển qua khó chịu . Đau chân, đau lưng, chịu hết nổi, lại ngồi thiền .
Khi ngồi xuống, sẽ có cảm giác dễ chịu . Dần dần, ta lại cảm thấy khó chịu .
Như vậy, cảm thọ biến đổi không ngừng .
5/ Chúng ta phải tách thọ nhận được từ thân hay từ tâm .
- Nếu khó chịu từ thân, mình không để cho tâm ưu phiền .
- Sau đó, tìm nguyên nhân sự khó chịu đó (do ngồi nhiều quá, bị đau lưng, đau bụng, không dám uông nước nên khát, không dám đi tiểu).
- ăn ngon và sự thích thú không phải là một, sự dễ chịu của thân không dính dáng gì đến tâm . Sau cùng, khi bị khổ thân, tâm không khổ ---> bớt khổ rất nhiều .
- tương tự vui, buồn, không vui không buồn là những cảm thọ của tâm . Như cảm thọ của thân, cảm thọ của tâm là cảm thọ, chứ không có ai cả . Mình như thế nào thì người như thế đó .
- Từ đó, mình có thể xem sự sanh lên của các cảm thọ, nhìn xem sự diệt đi của các cảm thọ . Nhờ vậy, ta có thể nhìn các cảm thọ theo tư thế của người ngoại cuộc . Và không bị chúng cuốn đi .
Tứ Niệm Xứ: Quán Tâm
Để ý xem nó là Tâm Tham hay là Tâm Sân:
- Tâm Tham có nghĩa là đang thọ Lạc, có nghĩa là dễ chịu .
- Tâm Sân thọ Ưu .
Ghi nhận tâm có tham hay tâm có sân .
Khi ai đó mắng chửi mình,
- mình cảm thấy có sự khó chịu, hãy ghi nhận tâm có sân và quan sát tâm sân .
- mình cảm thấy không có sự khó chịu, hãy ghi nhận tâm không có sân và quan sát tâm không sân .
- đề phòng
- luôn giữ chánh niệm
Càng tu tập, tâm càng nhạy cảm . Mức độ nhạy cảm tuỳ thuộc vào sự thực hành của mỗi người .
1. Người ở bẩn, 7 ngày không tắm, sống gần cống rãnh, nếu nằm dưới đất vẫn không sao . Người tắm rửa sạch sẽ, khi ngón tay chạm đất sẽ thấy dơ bẩn .
2. Người sống với tham sân si rất nhiều, sẽ không phát hiện được tâm đang tham / sân / si . Đó là vì tâm bị ô nhiễm quá nhiều rồi, nay thêm một đống ô nhiễm nữa cũng vậy thôi .
Ví dụ: Nhờ quán tâm kỹ lưỡng,
- Khi qua quán bán bánh canh, họ nhận ra ngay tâm Tham đang có mặt .
- Không cần phải nhìn thấy phụ nữ, mà chỉ cần nhìn thấy đôi giày phụ nữ, thỏi son, hình nộm phụ nữ (mannequin), hoặc y phục phụ nữ, lập tức họ phát hiện tâm Tham nổi dậy .
Các tâm còn lại cũng vậy .
Cần quan sát:
Tâm Tham này có Dục đi kèm hay không . Nếu có, hãy ghi nhận: Tâm Tham này có Dục đi kèm . Ví dụ: ăn ngon cảm thấy thích thú, hãy ghi nhận "Tâm Tham có Dục đi kèm ." Thích thú trong việc hành thiền / học Pháp, là có Tham nhưng không dính dáng đến Dục .
Sách Tam Tạng Chỉ Nam dạy chúng ta nên có:
- những cái Tham không dính dáng đến Dục (thích bố thí, thích hành thiền, thích giữ giới) và
- những cái Sân không dính dáng đến Dục (lo lắng không biết làm sao để "giữ giới" / "hành thiền" /"tâm được tinh tấn" tốt hơn).
Tứ Niệm Xứ: Quán Pháp
Quán Pháp đòi hỏi chúng ta có kiến thức về giáo lý Phật Pháp .
Ví dụ: Khi quán tâm Tham, phải biết cái Tham này từ đâu mà có .
Uống ly nước thấy ngon quá do lưỡi tiếp xúc với nước, do thân này mới có lưỡi, do đầu thai mới có thân tâm này, do tạo các Nghiệp Thiện Ác trong quá khứ mới đi đầu thai, do đi đầu thai nên mới có cái Thân cái Tâm này . Do cái Thân Tâm này, mình mới có cái miệng và có ly nước . Chính vì cái miệng và ly nước gặp nhau nên các cảm thọ nảy sinh . Do các cảm thọ này sinh ra chuyện thích thú . Do sự thích thú đưa đến sự dính mắc . Do dính mắc nên đưa đến phản ứng và đến thiện ác . Do thiện ác đưa mình đi tái sanh . Hễ còn tái sanh là không thể tránh KHỔ .
Phải quan sát tới mức độ như vậy:
- Quan sát dựa trên 12 Nhân Duyên, đi theo chiều nghịch rồi đi theo chiều thuận .
- Thấy rõ sự tai hại của cái Tham này , và
- làm sao chấm dứt được cái Tham này .
- có kiến thức về Phật Pháp, học hỏi Kinh Điển và biết các phương pháp, và
- biết nên áp dụng phương pháp nào để chấm dứt tâm Tham .
Như vậy, chúng ta cần biết Bát Chánh Đạo:
- Chánh Kiến là gì, mình có Chánh Kiến hay chưa, từ lời nói, hành động, hay suy tư của mình có Chánh Kiến hay chưa,
- Chánh Mạng mình có hay chưa, từ lời nói, hành động hay suy tư của mình có phù hợp vơi Chánh Mạng hay không, mình đang làm gì để nuôi sống bản thân có đúng hay không .
Quan sát xem nội tâm đang bung xung loạn động hay đang lui sụt:
- Tâm đang bung xung loạn động: lý do gì, và phương pháp gì để ngăn ngừa / hạn chế nó . Bài Kinh nào nói về chuyện đó, học và thực hành cách nào để ngăn tâm bung xung loạn động .
- Tâm đang bị đóng rêu (buồn ngủ, dã dượi): do đâu có tâm này, cách giải quyết .
Kết Luận:
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành để phát triển Trí Tuệ, không phải là một công thức để tụng niệm . Tâm phải quan sát chuyện gì đang xảy ra và làm sao để giải quyết nó . Nhờ vậy mình thành thật với chính mình, có gì thì phát hiện cái đó, đề phòng nó, tách nó ra . Ở đây, chỉ có vấn đề, không có ai có vấn đề . Ví dụ: Một bà mẹ đứng trước cổng trường chửi xối xả: Nhận biết đây có tâm Sân, không có con người, có vấn đề nhưng không có con người đang gặp vấn đề . Như vậy, mình nhìn vấn đề bằng một cặp mắt tỉnh táo và thành thật với chính mình . Từ đó, mình không bị người ta dắt mũi chạy theo cảm xúc .
--ooOoo--
Tứ Chánh Cần
Khi thực hành Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là chúng ta đang thực hành Tứ Chánh Cần .
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)