2022-08-17, 12:09 AM
c. Tinh thần đại hùng, đại lực và đại từ bi của Phật Giáo đối với sự hòa giải hòa hợp hoàn toàn bên trong các dân tộc và sự hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc đưa đến một nền hòa bình vững chắc cho loài người.
Ý kiến của Kim Dung xét qua các cốt chuyện của ông là sự hòa giải hòa hợp hoàn toàn bên trong các dân tộc và sự hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc đưa đến môt nền hòa bình vững chắc cho loài người, chỉ có thể thực hiện được khi những người hoạt động chánh trị trên thế giới đều thật sự yêu thương người khác, và có đủ sức chế ngự các dục vọng của mình, để không bị lòng tham quyền lực danh vọng lôi cuốn vào con đường độc đoán và tàn ác. Cái đức tánh cần thiết trên đây đã được nhiều triết gia, nhiều học phái đạo đức nêu ra. Nhưng tự cổ chí kim và từ đông sang tây, không trường phái nào có những nhận định và chủ trương thích ứng bằng Phật Giáo về vấn đề này. Đó là vì Phật Giáo có những nguyên tắc căn bản đặc biệt khác với nguyên tắc của các giáo phái khác.
1) Giáo lý nhà Phật không kêu gọi con người phải nhắm mắt tin tưởng theo mình và tuyệt đối tuân hành mạng lịnh các giáo sĩ của môn phái mình để được cứu rổi hay được hưởng phước lành. Trái lại, nó dạy con người phải dựa vào mình trước nhứt và phải cố gắng để tự giải thoát lấy mình. Ngay đến pháp môn Tịnh Độ dạy người tu hành bằng cách niệm Phật cũng không phải là một lối giải thoát hoàn toàn nhờ tha lực, vì việc niệm Phật hàm ý là người tu theo pháp môn Tịnh Độ tự nguyện làm lành lánh dữ và giữ các giới cấm tối thiểu của người Phật tử. Sự tu hành theo Phật Giáo thuộc mọi tông phái đều đòi hỏi con người phải có sự đại hùng đại lực, tức là một sức mạnh tinh thần vững chắc và dồi dào.
Về mặt suy luận, tinh thần đại hùng đại lực mà Phật Giáo đòi hỏi nơi con người đưa đến sự tự do tư tưởng. Người theo Phật Giáo chơn chánh không để cho mình bi cột buộc vào bất cứ tín điều hay định kiến nào mà phải tự mình suy nghĩ để tìm chan lý. Trong bộ kinh Anguttara Nikaya tức là Tăng Nhứt Tập, có chép việc Đức Phật dạy ngưdi Kalama không nên nhắm mắt tin theo dư luận, truyền thống, kinh sách hay một bực đạo hạnh cao siêu mà mình nhận làm thầy, mà chỉ nên tin theo cái phải hay cái quấy mà chính tâm trí mình đã nhận thức được. Trong lịch sử nhơn loại, Đức Phật là vị Giáo Tổ duy nhất nhiều lần căn dặn các đệ tử mình không nên tin ngay tất cả những điều Ngài nói mà phải xét kỹ lại những lời nói của Ngài, chừng nào nhận thấy chắc chắn nó có giá trị thì mới tin theo.
2) Chẳng những tự mình theo đúng nguyên tắc tự do tư tưởng, người theo Phật Giáo chơn chánh còn tôn trọng sự tự do tư tưởng của người khác. Đức Phật đã dạy đệ tử phải đối xử với các giáo lý và giáo phái khác một cách khoan dung. Có lần người cầm đầu một môn phái khác sai đệ tử là Upali đến gặp Đức Phật để đấu lý về thuyết luân hồi. Sau khi thảo luận với Ngài, ông Upali thấy Ngài có lý hơn nên xin làm đệ tử của Ngài. Nhưng Đức Phật đã bảo: “Ông phải suy nghĩ cho thật chính đính về lời nói của tôi chớ không nên vội vã”. Khi thấy ông Upali thiết tha nài nĩ, Đức Phật yêu cầu ông đừng bỏ thầy cũ mà trái lại, phải cung kính phụ giúp người thầy này như trước. Câu chuyện này cho thấy rằng Phật Giáo dạy người phải mở rộng tâm hồn trí não để thông cảm với mọi giáo lý khác, vì chơn lý vốn hiện ra muôn mặt và mỗi học thuyết đều có chỗ sở đắc của nó. Người theo Phật Giáo chơn chánh phải phá trừ kiến chấp, tránh sự cuồng tín hẹp hòi.
3) Nhưng sự khoan dung của Phật Giáo không phải đưa đến sự tiêu cực thụ động trước những hành động tàn bạo của kẻ sai quấy. Tinh thần đại hùng đại lực của Phật Giáo chẳng những được dùng trong việc tự chiến thắng lấy mình để tìm chơn lý và theo chánh đạo, mà còn phải được dùng trong việc chế ngự các lực lượng ác hại. Tuy nhiên, trong sự đối phó với những kẻ sai quấy, tinh thần đại hùng đại lực của người theo Phật Giáo cần phải được hòa hợp với tinh thần đại từ bi. Người theo Phật Giáo chơn chánh dầu phải đứng vào thế đối kháng với một kẻ địch hung bạo, vẫn không nuôi lòng thù hận khinh ghét kẻ địch ấy, mà trái lại, có sự xót thương đối với một con người vì mê muội mà đi vào con đường lầm lạc. Thái độ của người theo Phật Giáo chơn chánh đối với kẻ địch chống lại mình cũng giống như thái độ của xã hội dân chủ tự do hiện nay đối với những kẻ phạm tội ác trong lúc điên cuồng. Tuy xã hội này vẫn phải chế tài hành động tội ác của người điên cuồng, nhưng sự chế tài của nó trong trường hợp này không hàm ý báo oán hay trừng phạt mà hàm ý xót thương và nâng đỡ kẻ phạm tội ác.
Vậy, mục đích chánh yếu của người theo Phật Giáo chơn chánh đối với một kẻ địch hung bạo không phải là quyết tâm trừ diệt kẻ địch ấy mà là cố gắng cảm hóa giác ngộ họ để lôi họ về con đường phải, dầu có phải buộc lòng sát hại họ vì công lợi thì cũng không nuôi lòng thù hận đối với họ. Theo giáo lý Phật Giáo, người phạm tội ác đến ngập đầu mà có lòng ăn năn sám hối một cách chơn thành thì phải được tha thứ, và người theo Phật Giáo cần phải cố gắng đưa những kẻ làm ác đến sự ăn năn sám hối chơn thành đó.
Kim Dung đã nêu rõ vấn đề này khi nói đến việc Pháp Đăng Đại Sư, nguyên là Đoàn Nam Đế , đã kiên nhẫn hết mực để lôi Từ Ân Đại Sư, nguyên là Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, về con đường phải. Như chúng tôi đã trình bày trong Mục I, Chuơng I của sách này, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang vốn được Kim Dung dùng để tượng trưng cho Quốc Xã Đức. Việc ông thành thật ăn năn và cuối cùng đã được bà Lưu Anh Cô tha thứ về tội đã sát hại đứa con nhỏ của bà biểu lộ quan niệm của Kim Dung về việc cải hóa những người theo chủ trương hung bạo. Ngoài Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, còn nhiều cao thủ võ lâm khác đã hối cải và qui y Phật Pháp, từ bỏ giấc mộng tranh bá đồ vương, chấm dứt lòng thù hận đối với kẻ địch đã tàn hại mình hay thân thuộc mình và ăn năn sám hối về những hành động tàn ác của mình như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, Tạ Tốn.
còn tiếp...
Ý kiến của Kim Dung xét qua các cốt chuyện của ông là sự hòa giải hòa hợp hoàn toàn bên trong các dân tộc và sự hòa giải hòa hợp giữa các dân tộc đưa đến môt nền hòa bình vững chắc cho loài người, chỉ có thể thực hiện được khi những người hoạt động chánh trị trên thế giới đều thật sự yêu thương người khác, và có đủ sức chế ngự các dục vọng của mình, để không bị lòng tham quyền lực danh vọng lôi cuốn vào con đường độc đoán và tàn ác. Cái đức tánh cần thiết trên đây đã được nhiều triết gia, nhiều học phái đạo đức nêu ra. Nhưng tự cổ chí kim và từ đông sang tây, không trường phái nào có những nhận định và chủ trương thích ứng bằng Phật Giáo về vấn đề này. Đó là vì Phật Giáo có những nguyên tắc căn bản đặc biệt khác với nguyên tắc của các giáo phái khác.
1) Giáo lý nhà Phật không kêu gọi con người phải nhắm mắt tin tưởng theo mình và tuyệt đối tuân hành mạng lịnh các giáo sĩ của môn phái mình để được cứu rổi hay được hưởng phước lành. Trái lại, nó dạy con người phải dựa vào mình trước nhứt và phải cố gắng để tự giải thoát lấy mình. Ngay đến pháp môn Tịnh Độ dạy người tu hành bằng cách niệm Phật cũng không phải là một lối giải thoát hoàn toàn nhờ tha lực, vì việc niệm Phật hàm ý là người tu theo pháp môn Tịnh Độ tự nguyện làm lành lánh dữ và giữ các giới cấm tối thiểu của người Phật tử. Sự tu hành theo Phật Giáo thuộc mọi tông phái đều đòi hỏi con người phải có sự đại hùng đại lực, tức là một sức mạnh tinh thần vững chắc và dồi dào.
Về mặt suy luận, tinh thần đại hùng đại lực mà Phật Giáo đòi hỏi nơi con người đưa đến sự tự do tư tưởng. Người theo Phật Giáo chơn chánh không để cho mình bi cột buộc vào bất cứ tín điều hay định kiến nào mà phải tự mình suy nghĩ để tìm chan lý. Trong bộ kinh Anguttara Nikaya tức là Tăng Nhứt Tập, có chép việc Đức Phật dạy ngưdi Kalama không nên nhắm mắt tin theo dư luận, truyền thống, kinh sách hay một bực đạo hạnh cao siêu mà mình nhận làm thầy, mà chỉ nên tin theo cái phải hay cái quấy mà chính tâm trí mình đã nhận thức được. Trong lịch sử nhơn loại, Đức Phật là vị Giáo Tổ duy nhất nhiều lần căn dặn các đệ tử mình không nên tin ngay tất cả những điều Ngài nói mà phải xét kỹ lại những lời nói của Ngài, chừng nào nhận thấy chắc chắn nó có giá trị thì mới tin theo.
2) Chẳng những tự mình theo đúng nguyên tắc tự do tư tưởng, người theo Phật Giáo chơn chánh còn tôn trọng sự tự do tư tưởng của người khác. Đức Phật đã dạy đệ tử phải đối xử với các giáo lý và giáo phái khác một cách khoan dung. Có lần người cầm đầu một môn phái khác sai đệ tử là Upali đến gặp Đức Phật để đấu lý về thuyết luân hồi. Sau khi thảo luận với Ngài, ông Upali thấy Ngài có lý hơn nên xin làm đệ tử của Ngài. Nhưng Đức Phật đã bảo: “Ông phải suy nghĩ cho thật chính đính về lời nói của tôi chớ không nên vội vã”. Khi thấy ông Upali thiết tha nài nĩ, Đức Phật yêu cầu ông đừng bỏ thầy cũ mà trái lại, phải cung kính phụ giúp người thầy này như trước. Câu chuyện này cho thấy rằng Phật Giáo dạy người phải mở rộng tâm hồn trí não để thông cảm với mọi giáo lý khác, vì chơn lý vốn hiện ra muôn mặt và mỗi học thuyết đều có chỗ sở đắc của nó. Người theo Phật Giáo chơn chánh phải phá trừ kiến chấp, tránh sự cuồng tín hẹp hòi.
3) Nhưng sự khoan dung của Phật Giáo không phải đưa đến sự tiêu cực thụ động trước những hành động tàn bạo của kẻ sai quấy. Tinh thần đại hùng đại lực của Phật Giáo chẳng những được dùng trong việc tự chiến thắng lấy mình để tìm chơn lý và theo chánh đạo, mà còn phải được dùng trong việc chế ngự các lực lượng ác hại. Tuy nhiên, trong sự đối phó với những kẻ sai quấy, tinh thần đại hùng đại lực của người theo Phật Giáo cần phải được hòa hợp với tinh thần đại từ bi. Người theo Phật Giáo chơn chánh dầu phải đứng vào thế đối kháng với một kẻ địch hung bạo, vẫn không nuôi lòng thù hận khinh ghét kẻ địch ấy, mà trái lại, có sự xót thương đối với một con người vì mê muội mà đi vào con đường lầm lạc. Thái độ của người theo Phật Giáo chơn chánh đối với kẻ địch chống lại mình cũng giống như thái độ của xã hội dân chủ tự do hiện nay đối với những kẻ phạm tội ác trong lúc điên cuồng. Tuy xã hội này vẫn phải chế tài hành động tội ác của người điên cuồng, nhưng sự chế tài của nó trong trường hợp này không hàm ý báo oán hay trừng phạt mà hàm ý xót thương và nâng đỡ kẻ phạm tội ác.
Vậy, mục đích chánh yếu của người theo Phật Giáo chơn chánh đối với một kẻ địch hung bạo không phải là quyết tâm trừ diệt kẻ địch ấy mà là cố gắng cảm hóa giác ngộ họ để lôi họ về con đường phải, dầu có phải buộc lòng sát hại họ vì công lợi thì cũng không nuôi lòng thù hận đối với họ. Theo giáo lý Phật Giáo, người phạm tội ác đến ngập đầu mà có lòng ăn năn sám hối một cách chơn thành thì phải được tha thứ, và người theo Phật Giáo cần phải cố gắng đưa những kẻ làm ác đến sự ăn năn sám hối chơn thành đó.
Kim Dung đã nêu rõ vấn đề này khi nói đến việc Pháp Đăng Đại Sư, nguyên là Đoàn Nam Đế , đã kiên nhẫn hết mực để lôi Từ Ân Đại Sư, nguyên là Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, về con đường phải. Như chúng tôi đã trình bày trong Mục I, Chuơng I của sách này, Bang Chủ Thiết Chưởng Bang vốn được Kim Dung dùng để tượng trưng cho Quốc Xã Đức. Việc ông thành thật ăn năn và cuối cùng đã được bà Lưu Anh Cô tha thứ về tội đã sát hại đứa con nhỏ của bà biểu lộ quan niệm của Kim Dung về việc cải hóa những người theo chủ trương hung bạo. Ngoài Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, còn nhiều cao thủ võ lâm khác đã hối cải và qui y Phật Pháp, từ bỏ giấc mộng tranh bá đồ vương, chấm dứt lòng thù hận đối với kẻ địch đã tàn hại mình hay thân thuộc mình và ăn năn sám hối về những hành động tàn ác của mình như Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, Tạ Tốn.
còn tiếp...
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.