2022-08-11, 04:12 PM
Cứ theo sự mô tả của Kim Dung thì người muốn luyện vô công theo QUÌ HOA BẢO ĐIỂN trước hết phải tự thiến; nếu không làm như vậy thì khi luyện, lửa dục thiêu đốt ruột gan thành tẩu hỏa nhập ma khiến người cứng đơ ra mà chết. Do chỗ phải tự thiến này mà người luyện võ công theo QUÌ HOA BẢO ĐIỂN lần lần hóa ra ái nam ái nữ. Râu họ mỗi ngày rụng bớt đi một ít, cho đến khi không còn sợi nào; cử chỉ họ mất tính cách cứng rắn của người đàn ông; thanh âm họ cũng thành ra đàn bà.
Luyện đến mức tuyệt đỉnh như Đông Phương Bất Bại thì người hoàn toàn cư xử giống hệt một phụ nữ . Đông Phương Bất Bại ở một chỗ giống như chốn thâm khuê, ăn mặc diêm dúa y như đàn bà. Ông đã mê say một thanh niên trẻ tuổi và to lớn vặm vỡ là Dương Liên Đình. Chẳng những tin cậy người thanh niên này và để cho anh ta trọn quyền quản lãnh hết mọi công việc của Triêu Dương Thần Giáo, ông còn hết sức chiều chuộng anh ta y như người vợ đối với chồng. Ông không ngần ngại biểu lộ sự thương yêu và tùng phục của ông đối với Dương Liên Đình ngay trong lúc những người thù địch của ông đang đứng trước mặt ông và sẵn sàng tấn công để giết ông. Vậy theo Kim Dung, muốn trở thành một cao thủ vô địch trong võ lâm xứng đáng với tên Bất Bại, Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo đã phải chấp nhận tự thiến và trở thành một con người quái đản, có hình thái và tâm lý trái với người thường. Với hình ảnh này, tác giả bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ đã có ý đưa ra một nhận xét về kỹ thuật làm việc của Cộng Sản do Lenin sáng chế và được Stalin cải thiện thêm. Kỹ thuật này đã làm cho Cộng Sản Quốc Tế trở thành một đoàn thể chánh trị hữu hiệu đủ sức đánh bại các đối thủ của mình để cướp đoạt và duy trì chánh quyền ở nhiều nước, đồng thời chống chọi lại các cường quốc Tây Phương một cách hữu hiệu.
Nhưng muốn đạt mức độ hiệu lực này, Cộng Sản Quốc Tế đã áp dụng một phương pháp rất đặc biệt để huấn luyện các đảng viên của mình, làm cho họ hoàn toàn khác với người thường.
Người đảng viên cộng sản được hướng dẫn đến chỗ có một lòng tin tưởng tuyệt đối nơi chánh nghĩa và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản và sẵn sàng làm mọi việc theo quyết định của cấp trên. Họ phải trừ bỏ hết mọi ý kiến, tư tưởng và tình cảm cá nhơn. Họ phải xem là đúng bất cứ quyết định nào của cấp trên, dầu nó trái với lẽ phải thông thường, mâu thuẫn với một quyết định đã có trước, hay đụng chạm nặng nề đến những tình cảm sâu đậm nhất, thiêng liêng nhất trong lòng họ. Khi Đảng ra lịnh tố cáo, nguyền rủa hay sát hại các thân nhơn ngay cả đến cha mẹ ông bà mình, người đảng viên cũng phải cương quyết và mạnh bạo thi hành. Những người không chấp nhận làm như vậy thì bị trừ diệt hay ít nhất cũng bị loại ra khỏi Đảng. Chỉ có các đảng viên hoàn toàn chấp nhận tùng phục Đảng và được uốn nắn theo khuôn khổ Đảng đưa ra mới được trọng dụng và lần lần thăng cấp để leo lên địa vi lãnh đạo trong Đảng.
Nhờ kỹ thuật này mà Đảng Cộng Sản có một sức mạnh lớn lao và đã nắm phần chiến thắng trong cuộc tranh đấu nó đeo đuổi. Nhưng muốn đi đến mục đích này, nó đã phải làm cho các đảng viên của nó bị thương tổn nặng nề về mặt tâm lý. Việc hủy diệt các ý kiến, tư tưởng và nhứt là tình cảm cá nhơn đến mức tố cáo, nguyền rủa hay sát hại cha mẹ ông bà mình là một hành động làm cho người bị mất nhơn tránh. Nó giúp người đạt mức “bất bại” trong cuộc tranh đấu chánh tri, nhưng cũng làm cho người không cỏn hoàn toàn là người. Nó đã được Kim Dung so sánh với việc tự thiến để luyện võ công theo QÙI HOA BẢO ĐIỂN, làm cho người đạt mức “bất bại” trong cuộc tranh đấu bằng võ công, nhưng cũng đồng thời làm cho người trở thành ái nam ái nữ tức là một con người tàn tật, bất cụ. Qua các dữ kiện trên đây, ta cỏ thể bảo rằng Kim Dung đã dùng QÙI HOA BẢO ĐIỂN để ám chỉ chủ nghĩa Lenin-Stalin đã được Trung Cộng áp dụng trong việc tổ chức và hoạt động của mình.
- Về phần Nhậm Ngã Hành, công phu độc đáo của ông là Hấp Tinh Đại Pháp. Luyện được công phu này rồi thì khi thân thể minh đụng chạm với thân thể người khác, mình có thể thâu hút công lực của họ vào thân thể mình. Nếu không chấm dứt sự đụng chạm thì sự thâu hút công lực này vần tiếp tục cho đến khi người mà công lực bị thâu hút hoàn toàn kiệt quệ.
Đây là một công phu kỳ diệu làm cho người luyện nó lấy được công phu luyện tập của kẻ khác, kể cả của địch thủ để làm sức mạnh của chính mình. Nhưng sau khi thâu hút được công lực một kẻ khác vào thân thể mình, người luyện Hấp Tinh Đại Pháp phải hóa tán nó và đưa nó vào các kinh mạch của mình để sử dụng. Nếu các luồng công lực mình thâu hút được vốn thuộc những người luyện tập theo những cách thức khác nhau thì người luyện tập Hấp Tinh Đại Pháp phải có khả năng dung hợp nó làm một công tác thuần nhất. Không dung hợp nổi các công lực dị biệt mà mình thâu hút được thì nó sẽ phản lại để cấu xê mình và mình phải dùng công lực của chính mình để đối phó. Trong trưởng hợp công lực của mình không đủ mạnh để chế ngự các luồng công lực dị biệt mình đã thâu hút vào người mà không dung hợp nổi thì mình phải lâm nguy. Nhậm Ngã Hành cuối cùng đã chết một cách đột ngột vì mặc dầu đã cố công nghiên cứu tìm tòi ông vẫn không thành công trong việc dung hợp một cách êm xuôi các công lực ông đã thâu hút và phải dùng đến một nội công cực kỳ bá đạo để khử trừ các công lực ấy.
Mặt khác, nếu kẻ địch có một công lực quá đặc biệt và có thể gây hại cho thân thể người thâu hút nó thì người sử dụng công phu Hấp Tinh Đại Pháp phải lâm nguy. Việc này đã xảy ra cho Nhậm Ngã Hành sau khi ông thâu hút công lực của Tả Lãnh Thiền. Luồng công lực đặc biệt này đã được luyện theo phép Hàn Ngọc Chơn Khí nên làm cho người thâu hút nó vào thân thể mình phải bị lạnh cóng.
Nhậm Ngã Hành đã suýt bị thiệt mạng vì luồng công lực âm hàn này. Nhậm Ngã Hành làm Giáo Chủ Triêu Dương Thần Giáo trước và sau Đông Phương Bất Bại, mà như ta đã thấy, Triêu Dương Thần Giáo là biểu tượng của Trung Cộng. Vậy, Hấp Tinh Đại Pháp cũng đã được Kim Dung dùng để ám chỉ một kỹ thuật làm việc đã được Trung Cộng áp dụng. Qua cách thức ông mô tả Hấp Tinh Đại Pháp, ta có thể nghĩ rằng ông đã muốn nói đến một kỹ thuật đặc biệt của Trung Cộng nói riêng và Cộng Sản các nước nói chung trong việc đối phó với các đoàn thể chánh trị khác.
Nói chung thì Đảng Cộng Sản nhắm mục đích nắm độc quyền chánh trị trong quốc gia nên phải đối phó với tất cả các đoàn thể chánh trị khác. Nhưng lúc còn yếu, họ không thể đồng thời đương đầu lại tất cả các đoàn thể chánh trị khác. Bởi đó, họ phải sắp hạng các đoàn thể cần phải trừ diệt theo một thứ tự trước sau rất rõ rệt. Thường thì họ chĩa mũi dùi vào đoàn thể bị xem là kẻ thủ số một và sẵn sàng liên minh với các đoàn thể khác, hoặc thành lập một Mặt Trận với các đoàn thể khác này để triệt hạ kẻ thù bị đặt lên hàng số một. Khi kẻ thù số một này đã bị hạ rồi thì đoàn thể trước đây bị xem là kẻ thù số hai và đang liên minh với họ hay đang ở trong một Mặt Trận với họ bị họ nâng lên hàng kẻ thù số một và tìm cách triệt hạ. Nếu có sự thay đổi trong tình thế quốc gia làm xuất hiện một mối nguy lớn cho tất cả, người cộng sản có thể quay lại liên minh hay lập Mặt Trận với kẻ thù sổ một của họ. Đó là việc xảy ra ở Trung Quốc sau khi nước này bị người Nhựt tấn công. Lúc ấy, Trung Quốc đã quay lại bắt tay với Trung Hoa Quốc Dân Đảng để chống lại Nhựt mặc dầu trước đó, hai bên đã xem nhau như thù địch và đã tìm cách triệt hạ nhau.
Đối với kẻ thù đang đối địch với họ, cũng như đối với các đoàn thể đang liên minh với họ hoặc cùng đứng chung với họ trong một Mặt Trận, người cộng sản đều áp dụng kỹ thuật vận động để lôi kéo người của đoàn thể khác theo mình. Kỹ thuật địch vận của họ nhầm mục đích khuyến dụ hoặc cưỡng bách người trong lực lượng kẻ địch ngầm theo họ và giúp họ chống lại địch. Việc ngầm vận động cho người của các đoàn thể chánh tri khác theo mình mà chống lại đoàn thể gốc của họ cũng được áp dụng đối với các đoàn thể đang liên minh với người cộng sản hoặc cùng đứng chung với người cộng sản trong một Mặt Trận. Vậy, dầu là địch hay bạn, hễ có sự tiếp xúc liên lạc với Cộng Sản thì đều bị Cộng Sản dùng kỹ thuật vận động đặc biệt của họ để lôi kéo người của mình đi theo họ làm cho mình mất dần tiềm lực đến mức phải kiệt quệ và bị tiêu diệt. Điều này đã được Kim Dung nói lên một cách bóng bẩy qua hình ảnh của Nhậm Ngã Hành dùng Hấp Tinh Đại Pháp để thâu hút công lực của những người đụng đến thân thể ông.
Về mối nguy phát xuất tử việc thâu hút nội lực kẻ khác, nó có thể được dùng để ám chỉ nhiều việc. Trước hết là việc kẻ địch lợi dụng cách hoạt động của Cộng Sản để cho người nội tuyến Đảng này và gây những lủng củng nội bộ, hoặc cố tình đưa ra những tin tức sai lạc để lái Đảng Cộng Sản theo một đường lối cuối cùng bất lợi cho Đảng ấy. Kế đó, là việc chinh phục các nhóm người có văn hóa và nếp sống khác nhau có thể gây những khó khăn lớn cho nhà cầm quyền cộng sản. Ta có thể lấy làm thí dụ cho tình trạng này, việc Cộng Sản Việt Nam bị khủng hoảng trầm trọng từ khi chinh phục được Miền Nam Việt Nam năm 1975. Trước đó, chánh quyền Cộng Sản Việt Nam không gặp trở ngại gì nhiều trong việc thống tri nhơn dân Miền Bắc Vie75t Nam. Nhưng từ năm 1975, nó đã phải đương đầu với nhiều vấn đề phát xuất từ chỗ nhơn dân Miền Nam Việt Nam đã quen với nếp sống tự do nên chống chọi lại nó, và việc nhơn dân Miền Bắc Việt Nam sau khi tiếp xúc với nhơn dân Miền Nam Việt Nam và biết được sự thật về Miền này cũng đã quay ra mất tin cậy nơi nó và chống chọi lại nó.
còn tiếp...
Luyện đến mức tuyệt đỉnh như Đông Phương Bất Bại thì người hoàn toàn cư xử giống hệt một phụ nữ . Đông Phương Bất Bại ở một chỗ giống như chốn thâm khuê, ăn mặc diêm dúa y như đàn bà. Ông đã mê say một thanh niên trẻ tuổi và to lớn vặm vỡ là Dương Liên Đình. Chẳng những tin cậy người thanh niên này và để cho anh ta trọn quyền quản lãnh hết mọi công việc của Triêu Dương Thần Giáo, ông còn hết sức chiều chuộng anh ta y như người vợ đối với chồng. Ông không ngần ngại biểu lộ sự thương yêu và tùng phục của ông đối với Dương Liên Đình ngay trong lúc những người thù địch của ông đang đứng trước mặt ông và sẵn sàng tấn công để giết ông. Vậy theo Kim Dung, muốn trở thành một cao thủ vô địch trong võ lâm xứng đáng với tên Bất Bại, Giáo Chủ của Triêu Dương Thần Giáo đã phải chấp nhận tự thiến và trở thành một con người quái đản, có hình thái và tâm lý trái với người thường. Với hình ảnh này, tác giả bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ đã có ý đưa ra một nhận xét về kỹ thuật làm việc của Cộng Sản do Lenin sáng chế và được Stalin cải thiện thêm. Kỹ thuật này đã làm cho Cộng Sản Quốc Tế trở thành một đoàn thể chánh trị hữu hiệu đủ sức đánh bại các đối thủ của mình để cướp đoạt và duy trì chánh quyền ở nhiều nước, đồng thời chống chọi lại các cường quốc Tây Phương một cách hữu hiệu.
Nhưng muốn đạt mức độ hiệu lực này, Cộng Sản Quốc Tế đã áp dụng một phương pháp rất đặc biệt để huấn luyện các đảng viên của mình, làm cho họ hoàn toàn khác với người thường.
Người đảng viên cộng sản được hướng dẫn đến chỗ có một lòng tin tưởng tuyệt đối nơi chánh nghĩa và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản và sẵn sàng làm mọi việc theo quyết định của cấp trên. Họ phải trừ bỏ hết mọi ý kiến, tư tưởng và tình cảm cá nhơn. Họ phải xem là đúng bất cứ quyết định nào của cấp trên, dầu nó trái với lẽ phải thông thường, mâu thuẫn với một quyết định đã có trước, hay đụng chạm nặng nề đến những tình cảm sâu đậm nhất, thiêng liêng nhất trong lòng họ. Khi Đảng ra lịnh tố cáo, nguyền rủa hay sát hại các thân nhơn ngay cả đến cha mẹ ông bà mình, người đảng viên cũng phải cương quyết và mạnh bạo thi hành. Những người không chấp nhận làm như vậy thì bị trừ diệt hay ít nhất cũng bị loại ra khỏi Đảng. Chỉ có các đảng viên hoàn toàn chấp nhận tùng phục Đảng và được uốn nắn theo khuôn khổ Đảng đưa ra mới được trọng dụng và lần lần thăng cấp để leo lên địa vi lãnh đạo trong Đảng.
Nhờ kỹ thuật này mà Đảng Cộng Sản có một sức mạnh lớn lao và đã nắm phần chiến thắng trong cuộc tranh đấu nó đeo đuổi. Nhưng muốn đi đến mục đích này, nó đã phải làm cho các đảng viên của nó bị thương tổn nặng nề về mặt tâm lý. Việc hủy diệt các ý kiến, tư tưởng và nhứt là tình cảm cá nhơn đến mức tố cáo, nguyền rủa hay sát hại cha mẹ ông bà mình là một hành động làm cho người bị mất nhơn tránh. Nó giúp người đạt mức “bất bại” trong cuộc tranh đấu chánh tri, nhưng cũng làm cho người không cỏn hoàn toàn là người. Nó đã được Kim Dung so sánh với việc tự thiến để luyện võ công theo QÙI HOA BẢO ĐIỂN, làm cho người đạt mức “bất bại” trong cuộc tranh đấu bằng võ công, nhưng cũng đồng thời làm cho người trở thành ái nam ái nữ tức là một con người tàn tật, bất cụ. Qua các dữ kiện trên đây, ta cỏ thể bảo rằng Kim Dung đã dùng QÙI HOA BẢO ĐIỂN để ám chỉ chủ nghĩa Lenin-Stalin đã được Trung Cộng áp dụng trong việc tổ chức và hoạt động của mình.
- Về phần Nhậm Ngã Hành, công phu độc đáo của ông là Hấp Tinh Đại Pháp. Luyện được công phu này rồi thì khi thân thể minh đụng chạm với thân thể người khác, mình có thể thâu hút công lực của họ vào thân thể mình. Nếu không chấm dứt sự đụng chạm thì sự thâu hút công lực này vần tiếp tục cho đến khi người mà công lực bị thâu hút hoàn toàn kiệt quệ.
Đây là một công phu kỳ diệu làm cho người luyện nó lấy được công phu luyện tập của kẻ khác, kể cả của địch thủ để làm sức mạnh của chính mình. Nhưng sau khi thâu hút được công lực một kẻ khác vào thân thể mình, người luyện Hấp Tinh Đại Pháp phải hóa tán nó và đưa nó vào các kinh mạch của mình để sử dụng. Nếu các luồng công lực mình thâu hút được vốn thuộc những người luyện tập theo những cách thức khác nhau thì người luyện tập Hấp Tinh Đại Pháp phải có khả năng dung hợp nó làm một công tác thuần nhất. Không dung hợp nổi các công lực dị biệt mà mình thâu hút được thì nó sẽ phản lại để cấu xê mình và mình phải dùng công lực của chính mình để đối phó. Trong trưởng hợp công lực của mình không đủ mạnh để chế ngự các luồng công lực dị biệt mình đã thâu hút vào người mà không dung hợp nổi thì mình phải lâm nguy. Nhậm Ngã Hành cuối cùng đã chết một cách đột ngột vì mặc dầu đã cố công nghiên cứu tìm tòi ông vẫn không thành công trong việc dung hợp một cách êm xuôi các công lực ông đã thâu hút và phải dùng đến một nội công cực kỳ bá đạo để khử trừ các công lực ấy.
Mặt khác, nếu kẻ địch có một công lực quá đặc biệt và có thể gây hại cho thân thể người thâu hút nó thì người sử dụng công phu Hấp Tinh Đại Pháp phải lâm nguy. Việc này đã xảy ra cho Nhậm Ngã Hành sau khi ông thâu hút công lực của Tả Lãnh Thiền. Luồng công lực đặc biệt này đã được luyện theo phép Hàn Ngọc Chơn Khí nên làm cho người thâu hút nó vào thân thể mình phải bị lạnh cóng.
Nhậm Ngã Hành đã suýt bị thiệt mạng vì luồng công lực âm hàn này. Nhậm Ngã Hành làm Giáo Chủ Triêu Dương Thần Giáo trước và sau Đông Phương Bất Bại, mà như ta đã thấy, Triêu Dương Thần Giáo là biểu tượng của Trung Cộng. Vậy, Hấp Tinh Đại Pháp cũng đã được Kim Dung dùng để ám chỉ một kỹ thuật làm việc đã được Trung Cộng áp dụng. Qua cách thức ông mô tả Hấp Tinh Đại Pháp, ta có thể nghĩ rằng ông đã muốn nói đến một kỹ thuật đặc biệt của Trung Cộng nói riêng và Cộng Sản các nước nói chung trong việc đối phó với các đoàn thể chánh trị khác.
Nói chung thì Đảng Cộng Sản nhắm mục đích nắm độc quyền chánh trị trong quốc gia nên phải đối phó với tất cả các đoàn thể chánh trị khác. Nhưng lúc còn yếu, họ không thể đồng thời đương đầu lại tất cả các đoàn thể chánh trị khác. Bởi đó, họ phải sắp hạng các đoàn thể cần phải trừ diệt theo một thứ tự trước sau rất rõ rệt. Thường thì họ chĩa mũi dùi vào đoàn thể bị xem là kẻ thủ số một và sẵn sàng liên minh với các đoàn thể khác, hoặc thành lập một Mặt Trận với các đoàn thể khác này để triệt hạ kẻ thù bị đặt lên hàng số một. Khi kẻ thù số một này đã bị hạ rồi thì đoàn thể trước đây bị xem là kẻ thù số hai và đang liên minh với họ hay đang ở trong một Mặt Trận với họ bị họ nâng lên hàng kẻ thù số một và tìm cách triệt hạ. Nếu có sự thay đổi trong tình thế quốc gia làm xuất hiện một mối nguy lớn cho tất cả, người cộng sản có thể quay lại liên minh hay lập Mặt Trận với kẻ thù sổ một của họ. Đó là việc xảy ra ở Trung Quốc sau khi nước này bị người Nhựt tấn công. Lúc ấy, Trung Quốc đã quay lại bắt tay với Trung Hoa Quốc Dân Đảng để chống lại Nhựt mặc dầu trước đó, hai bên đã xem nhau như thù địch và đã tìm cách triệt hạ nhau.
Đối với kẻ thù đang đối địch với họ, cũng như đối với các đoàn thể đang liên minh với họ hoặc cùng đứng chung với họ trong một Mặt Trận, người cộng sản đều áp dụng kỹ thuật vận động để lôi kéo người của đoàn thể khác theo mình. Kỹ thuật địch vận của họ nhầm mục đích khuyến dụ hoặc cưỡng bách người trong lực lượng kẻ địch ngầm theo họ và giúp họ chống lại địch. Việc ngầm vận động cho người của các đoàn thể chánh tri khác theo mình mà chống lại đoàn thể gốc của họ cũng được áp dụng đối với các đoàn thể đang liên minh với người cộng sản hoặc cùng đứng chung với người cộng sản trong một Mặt Trận. Vậy, dầu là địch hay bạn, hễ có sự tiếp xúc liên lạc với Cộng Sản thì đều bị Cộng Sản dùng kỹ thuật vận động đặc biệt của họ để lôi kéo người của mình đi theo họ làm cho mình mất dần tiềm lực đến mức phải kiệt quệ và bị tiêu diệt. Điều này đã được Kim Dung nói lên một cách bóng bẩy qua hình ảnh của Nhậm Ngã Hành dùng Hấp Tinh Đại Pháp để thâu hút công lực của những người đụng đến thân thể ông.
Về mối nguy phát xuất tử việc thâu hút nội lực kẻ khác, nó có thể được dùng để ám chỉ nhiều việc. Trước hết là việc kẻ địch lợi dụng cách hoạt động của Cộng Sản để cho người nội tuyến Đảng này và gây những lủng củng nội bộ, hoặc cố tình đưa ra những tin tức sai lạc để lái Đảng Cộng Sản theo một đường lối cuối cùng bất lợi cho Đảng ấy. Kế đó, là việc chinh phục các nhóm người có văn hóa và nếp sống khác nhau có thể gây những khó khăn lớn cho nhà cầm quyền cộng sản. Ta có thể lấy làm thí dụ cho tình trạng này, việc Cộng Sản Việt Nam bị khủng hoảng trầm trọng từ khi chinh phục được Miền Nam Việt Nam năm 1975. Trước đó, chánh quyền Cộng Sản Việt Nam không gặp trở ngại gì nhiều trong việc thống tri nhơn dân Miền Bắc Vie75t Nam. Nhưng từ năm 1975, nó đã phải đương đầu với nhiều vấn đề phát xuất từ chỗ nhơn dân Miền Nam Việt Nam đã quen với nếp sống tự do nên chống chọi lại nó, và việc nhơn dân Miền Bắc Việt Nam sau khi tiếp xúc với nhơn dân Miền Nam Việt Nam và biết được sự thật về Miền này cũng đã quay ra mất tin cậy nơi nó và chống chọi lại nó.
còn tiếp...
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.