2022-03-28, 04:29 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Thanh Tịnh (2-2)
Đấy, tôi đem đoạn dưới lên tôi giải thích chỗ này. Nếu các vị là một tỳ kheo hoặc là một người có thời gian tu học nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển thì sẽ thấy một điều rất thú vị, rất ly kỳ: bên cạnh việc Đức Phật Ngài để lại cho mình Tạng Kinh, tạng A Tỳ Đàm, tạng Luật, và tất cả những gì Ngài dạy trong Tạng Luật, trong tạng A Tỳ Đàm là để khai mở tấm lòng u tối của mình, để bỏ vô minh, phiền não, tham ái, tà kiến, nghi hoặc. Đó là pháp môn tu hành cho tinh thần. Nhưng nếu các vị có hành trì, có nghiên cứu Luật Tạng thì các vị thấy một chuyện đặc biệt nữa. Là tất cả những gì Đức Phật ban hành cho vị tỳ kheo thì Ngài bảo đảm cho vị tỳ kheo hai chuyện:
Tức là Đức Phật trong giáo Pháp của Ngài có những cái xuất sắc mà mình không thể lấy mắt mình nhìn được, mà chỉ cảm bằng trí thôi. Thí dụ, như khi Ngài ban hành giới luật cấm tỳ kheo không được giữ cái này, không được cất cái kia, không được sở hữu cái nọ, bla bla bla …rồi bắt tỳ kheo phải đi đứng ăn uống như thế nào, cư xử nói năng như thế nào, tiếp xúc, giao tế với cư sĩ phải như thế nào…Nếu lấy mắt mà nhìn thì phải nói là một hệ thống giáo lý rất là khó khăn, rất gắt gao, rất khó gặm! Nhưng có một điều mà chính Ngài cũng nói rõ ‘Ta để lại một giáo pháp không chỉ về tinh thần mà còn về vật chất cho các ngươi’ là sao?
Các vị có tin không? – Một người đàn ông, một cậu thanh niên không đẹp trai lắm, có một ngoại hình ngoại diện khó ngắm. Nhưng nếu làm đúng lời Phật, y áo trang nghiêm, cư xử phải phép chừng mực thì tự nhiên vị đó trở nên một người có sắc diện đáng kính. Đó là sự thật. Lạ như vậy!
Chưa hết, rõ ràng Đức Phật không có cho vị tỳ kheo tích lũy tài sản, nhưng nếu vị tỳ kheo hành trì đúng như những gì mà Ngài đã quy định, đã ban hành trong Tạng Luật, làm đúng những gì trong Tạng Kinh, A Tỳ Đàm thì vị đó một đời ăn không hết. Lạ như vậy đó. Đó là chuyện mình không thể lấy mắt mà nhìn được, mà phải ở trong cuộc mới biết.
Tại sao tôi đang giảng cái này mà phải đi xa như vậy để các vị thấy đặc biệt chỗ đó. Tôi nói theo Kinh chớ không phải nói theo chúng tôi nghe. Tôi nhắc lại:
Đức Phật không chỉ đơn giản là dạy cho mình con đường tu hành giải thoát phiền não mà Ngài còn sắp xếp, Ngài biết rất kỹ là nếu vị tỳ kheo mà làm đúng như lời của Ngài dạy thì coi như vị đó ăn một đời cũng không hết. Chỉ cần giới luật trong sạch, kiến văn đầy đủ, nếu mà đắc Thiền đắc Đạo thì số một khỏi nói. Còn nếu chẳng may không đắc được gì hết, chỉ cần có chánh tri kiến, có giới hạnh thanh tịnh thì một đời ăn không hết, cho dầu vị đó sống ở cái chỗ khỉ ho cò gáy, ‘chó ăn đá gà ăn muối’ cũng không sao hết.
Cho nên trong đoạn 22 này nói ‘Ta lo lắng chẳng những về tinh thần mà cả vật chất cho các ngươi nữa’. Nha, đặc biệt lắm!
Ngài dạy kỹ lắm. Tức là những ai hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp, không biết giáo pháp nói cái gì, cũng không biết gì về hệ thống tăng già của Đức Phật, và cũng chẳng biết gì về hệ thống truyền thừa thì cứ đọc bài Kinh này là có hết. Ngài dạy rấy kỹ. Chẳng hạn như ở đoạn 23:
“Này các tỳ kheo, nếu có ai đó nhìn thấy các ngươi có vẻ an lạc, có vẻ sung sướng rồi họ nói xấu các ngươi. Họ nói rằng các vị sa môn thích tử của sa môn Cồ Đàm chỉ biết tu hưởng, chỉ biết tu sướng thôi thì đừng có lấy đó làm phiền mà hãy giải thích cho họ nghe thế này: Đúng, chúng tôi tu rất là hạnh phúc. Chúng tôi tu rất là sung sướng. Nhưng cái sung sướng của chúng tôi nó không đi đến từ đời sống vật chất mà nó đến từ đời sống thiền định”.
Trong Kinh Tăng Chi nói có một lần vua Pasenadi vào hầu Phật. Ổng nói : “Bạch Thế Tôn, con lấy làm là là tại sao đệ tử Thế Tôn có đời sống vật chất hạn chế, mà sao con gặp vị nào vị nấy vẻ mặt sáng trưng hà”.
Đức Phật dạy: “Này đại vương, có chắc là đại vương thấy an lạc trong một ngày một đêm, hai ngày hai đêm hay không?”.
Vua nói "Dạ không, trong một khoảnh khắc thôi là con đã không sure là con được an lạc. Nhiều khi con muốn cười lắm nhưng chuyện triều chính, rồi chuyện của tam cung lục viện nhiều khi nó ám con. Con muốn cười một chút cũng không cười nổi nữa, thì nói gì là một ngày an lạc".
Phật nói: "Như Lai và các đệ tử Như Lai thì hoàn toàn có thể an lạc như mình muốn. Các vị muốn an trú cái gì thì các vị an trú trong đó. Cho nên Như Lai và các đệ tử Như Lai an lạc được trong một ngày, hai ngày, năm ngày, bảy ngày như ý. Đó là điểm khác biệt giữa người có hành trì và không có hành trì. Đó chính là lý do vì đâu đại vương nhìn thấy các tỳ kheo có đời sống vật chất rất khiêm tốn, rất là hạn chế, thậm chí cơ cực, bần hàn nữa nhưng vị nào cũng thấy an lạc hết."
Vì đời sống tinh thần ok thì những thiếu thốn, những khoảng trống về vật chất lập tức nó không đáng kể. Cho nên nếu có ai nói tu hành là hưởng thụ thì các ngươi nói không sai. Nhưng chúng tôi hưởng cái gì? – Chúng tôi hưởng thụ niềm tịnh lạc ngay trong nội tâm chớ không phải hưởng thụ theo kiểu ngoài thế gian.
Đức Phật Ngài dạy rõ nữa nếu chỉ là tu thiền Samatha thôi thì còn an lạc nói chi một người có tu tập cả Vipassana để thành tựu 4 tầng thánh Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả.
Tiếp theo, nếu có ai đó nói các vị tỷ kheo sống không có lập trường. Có nghĩa sống rày đây mai đó. Về tình cảm thì không có quan hệ rõ ràng. Về trú xứ cũng không có một nơi chốn rõ ràng. Nói chung, đời sống một vị tỳ kheo Nguyên Thủy không có một chút ràng buộc nào hết. Thì Đức Phật ngài dạy nếu có ai đó nói các ngươi không lập trường thì các ngươi phải nói thế này. “Không phải chúng tôi không có lập trường mà chúng tôi không có sự ràng buộc thì đúng hơn”. Có một sự khác biệt rất lớn giữa cái lập trường và cái ràng buộc. “Chúng tôi không có sự ràng buộc về bất cứ gì”.
Vì sao? – Các vị trong room làm ơn nhớ cái này quan trọng: Khoa học là gì? Khoa học là nghi ngờ và thử. Trong Phật Pháp cũng y chang như vậy. Người mà tu học đúng mức không bao giờ thấy rằng chỗ mình đứng là chỗ tốt nhứt. Đó là người biết cách tu học. Trong đời sống, một đời sống thông minh chỉ có chữ ‘better’ chớ không bao giờ có chữ ‘best’. Các vị nhớ nghe chỉ có cái tốt hơn chớ không có cái tốt nhứt. Tôi nhớ tôi nói không biết là bao nhiêu lần cái này.
Nếu các vị hỏi tôi chớ 'Theo Sư, nội dung Phật Pháp là gì?" thì tôi sẽ có cách nói rất là lạ. "Nội dung Phật Pháp là hướng tới cái better, never best." Là sao?
Tham- sân- si mà so với vô tham- vô sân- vô si thì vô tham vô sân vô si là better. Sân hận, cộc cằn, thô lỗ, nhỏ mọn mà đem so với lòng vị tha, bao dung, yêu thương, từ tâm thì cái từ tâm, yêu thương nó là better. Rồi vô minh, tà kiến, ngã mạn mà đem so với trí tuệ, chánh kiến thì mình thấy chánh kiến nó better. Như vậy đời tu của mình lúc nào cũng hướng tới cái tốt hơn, nhưng đừng bao giờ dại dột nghĩ rằng mình đang ở cái tốt nhứt. Theo tôi trong tự điển người tu Phật phải bỏ chữ ‘best’. Bởi vì đừng bao giờ nghĩ tới cái tốt nhứt, mà luôn luôn nghĩ tới chữ ‘tốt hơn’ cho đến bao giờ mình chết thì thôi. Nghe! Quan điểm tu học một người hành trì đúng lời Phật là luôn luôn ở trong tình trạng hướng tới mọi cái khác cao hơn.
Ở đây sự an lạc của tỳ kheo có nhiều cách:
Đoạn 27:
Ngài xác nhận một điều nữa là nếu có người nghi ngờ Thế Tôn về Túc mạng minh, về Quá khứ trí và Vị lai trí thì Ngài xác định rằng Ngài có điểm đặc biệt như sau: ngoại đạo không biết Phật Pháp nếu đắc thiền thì chỉ nhớ tối đa là 40 đại kiếp. Bồ tát đã được thọ ký thì có thể nhớ được tối đa là 80 đại kiếp. Còn vị Độc Giác thời gian hành ba la mật là 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp thì cái sức nhớ quá khứ và sức quán tương lai của vị này cũng chỉ giới hạn trong 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp. Riêng hai vị thượng thủ Thinh Văn thì thời gian hành ba la mật là một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp cho nên sức nhớ các vị này cũng chỉ quẩn quanh trong một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp. Còn bà Da Du Đà La mặc dù là Thinh Văn nhưng tu theo Bồ tát , bả tu 4 a tăng kỳ nên cũng có sức nhớ 4 a tăng kỳ, bà nhớ chuyện hồi dưới chân đức Phật Nhiên Đăng. Riêng vị Chánh Đẳng Chánh Giác hạnh tinh tấn là 80 a tăng kỳ, hạnh đức tin là 40 và hạnh trí tuệ là 20 a tăng kỳ. Tuy thời gian hành ba la mật là có giới hạn nhưng khi thành Phật rồi thì sức nhớ về chư Phật Chánh Đẳng Giác về quá khứ và khả năng nhìn về tương lai không có giới hạn. Đó là chuyện mình phải nhớ.
Nhưng trong bài Kinh này, đoạn 27 có một chi tiết rất là đặc biệt. Ngài xác nhận có thể nhớ không giới hạn về quá khứ, nhưng thay vì xác nhận mình có thể soi rọi vô số kiếp vị lai, thì ở đây Ngài lại có cách nói rất bất ngờ: ‘Kiếp này tịch xong là hết’.
Các vị thấy cách nói này đặc biệt không? Chú giải nói “Thế Tôn tác ý đến bao nhiêu, nghĩ đến bao nhiêu thì nhớ đến bấy nhiêu”. Nhưng ở đây Ngài chọn cách nói rất đặc biệt: Về quá khứ thì Như Lai có thể nhớ không giới hạn, còn về tương lai thì thay vì Ngài cũng có thể nói ‘Như Lai có thể nhớ một cách không giới hạn’ thì Ngài lại không nói. Ngài nói là: “Về quá khứ thì Như Lai có thể nhớ không giới hạn, còn về tương lai thì Như Lai biết rằng kiếp này tịch xong là hết”. Đó là điểm rất đặc biệt!
Trong bài Kinh này Đức Phật có nhắc đến những điều đặc biệt sau đây:
Chư Phật chỉ nói ra điều gì dựa trên bốn tiêu chí sau đây:
1- Luôn nói sự thật.
2- Luôn nói điều hữu ích.
3- Luôn nói đúng lúc.
4- Luôn nói bằng từ tâm.
Chư Phật luôn nói sự thật là, cái gì mà chư Phật đã nói ra thì sự thật nó là như vậy chớ nó không có khác đi được.
Luôn nói điều hữu ích: là có những sự thật mà nó không có lợi ích. Thí dụ một Phật tử tới thăm ông sư và hai thầy trò có thể ngồi cả tiếng nói chuyện với nhau về cách trồng lan, trồng bonsai. Đó là những chuyện đúng sự thật nhưng theo tiêu chí thứ hai này thì sai vì nó không là điều hữu ích cho con đường giải thoát.
Luôn nói đúng lúc: ai là những bậc cha mẹ thì biết mình thương con, muốn nhắc nhở con muốn dạy con thì phải lựa lúc lựa khi. VN mình có câu ‘Trời đánh tránh bữa ăn’, nhưng nhiều người có tật lúc bình thường không la mà hễ thằng con mới cầm đũa lên thì lôi ra nói. Chuyện đó có thiệt. Nói vậy là phi thời. Chư Phật thì luôn luôn nói điều đúng sự thật. Luôn luôn nói điều lợi ích và thứ ba nữa là nói đúng lúc đúng thời. Điều thứ tư là chư Phật luôn luôn nói bằng từ tâm.
Ở đây Thế Tôn định nghĩa chữ ‘Như Lai’:
1- Không gì nhân thiên biết mà Ngài không biết.
2- Trọn đời chỉ nói chân lý.
3- Nói sao làm vậy và ngược lại (làm sao thì nói vậy).
4- Không ai trong nhân thiên có thể hơn được Ngài về bất cứ mặt nào trong thiện pháp và trí tuệ.
( Từ đây về sau chúng tôi nói gọn thôi, chúng tôi đem phần sau trộn chung lại nghe).
Đoạn cuối Kinh này xác định rằng một người học hiểu Tứ Niệm Xứ một cách đàng hoàng thì không thể mắc vào những quan điểm tri kiến vớ vẩn vô ích và nguy hiểm về bản thân và thế giới nói chung.
(Đó, nội dung bài Kinh là vậy. Nếu ngay bây giờ mà tôi đóng sách lại không giảng nữa thì quý vị cũng học xong bài Kinh).
Vì sao đoạn cuối bài Kinh nói vậy? Kinh Tứ Niệm Xứ dạy mình cái gì? – Kinh Tứ Niệm Xứ trước hết dạy về Bốn Đế:
- Khổ đế: Mọi hiện hữu là khổ. Tất cả những gì ta thấy được, nghe, ngửi, nếm, đụng được trên đời này nó đều là khổ.
- Tập đế: Sự thật về khổ thứ hai là nếu mọi thứ ở đời là khổ thì bất cứ cái gì ta đam mê cũng đều là đam mê trong khổ. Đam mê cái gì cũng là đam mê trong khổ do thích trong khổ nên mới đầu tư thêm khổ.
- Đạo đế: là hành trình nhàm chán khổ đế để chấm dứt Tập đế.
- Diệt đế: khi sự nhàm chán đã đúng mức thì sự đam mê sẽ vắng mặt. Niết bàn là sự vắng mặt của tất cả niềm đam mê.
Tuy vậy, ta tiếp tục lánh ác làm thiện theo tinh thần Tứ Niệm Xứ, nghĩa là LÀM MÀ KHÔNG NẶNG LÒNG TỰ THỊ, chỉ xem việc tu học như chuyện uống thuốc chữa bịnh mà thôi. Hành giả Tứ Niệm Xứ biết đây là thiện, đây là bất thiện, đây là khổ, đây là vui, biết rõ. Nhưng không vì thấy mình tu tập tiến bộ rồi sanh tâm kiêu ngạo vì xem tu học chỉ là uống thuốc chữa bịnh mà thôi.
Thì với một người nhận thức được như vậy không biết chừng nào đắc, nhưng trước mắt họ không còn kẹt vào mấy cái tà kiến mà trong Kinh này vừa kể (Như thấy thế giới này là thường, lạc, ngã, tịnh; thế giới này là vô biên hay hữu biên; thế giới này do mình tạo ra hay người khác tạo ra). Mà tất cả là do duyên hết.
Hành giả thấy rằng mỗi thứ trong đời đều do duyên tạo mà có.
Có hai thứ duyên:
Ngay đến bản thân sự mất còn của cái này cái nọ cũng là duyên, vì chúng khiến cái gì đó có mặt hay mất đi. Thí dụ chủ cũ phải bán nhà thì chủ mới mới vô ở được. Phải ly dị người cũ mới cưới người mới được. Cho nên sự vắng mặt của cái này nó là điều kiện cho cái kia có mặt.
Rồi có trường hợp chính vì cái này có mặt nên cái kia mới có mặt.
Rồi có trường hợp cái này vắng mặt cái kia mới có mặt, mà A Tỳ Đàm gọi là Ly khứ duyên (Vô hữu duyên) là nhiều khi chính sự vắng mặt của cái này nó là điều kiện cho cái kia có mặt.
Tiền sanh duyên: Có trường hợp cái này giúp cho cái kia bằng cách nó có mặt trước.
Hậu sanh duyên: có trường hợp cái này giúp cho cái kia có mặt bằng cách nó có mặt sau.
Chính vì chiều nay có đám cưới nên chỗ này bây giờ đang được trang hoàng. Đám cưới là nguyên nhân nhưng xuất hiện sau. Trang hoàng là quả nhưng có mặt trước.
Câu sanh duyên (đồng sanh duyên): như cô dâu và chú rể cùng lúc có mặt, cùng lúc trao nhẫn cùng lúc nâng ly thì mới làm đám cưới được.
Như vậy, thế giới này là nơi gặp gỡ của các duyên. Ngoài duyên ra không còn gì hết. Thì hành giả thấy là cái gọi thằng Tèo thằng Tý, là nam nữ, đực cái trống mái, hạnh phúc đau khổ, niềm vui hay nụ cười, thấy tất cả trăng sao hoa lá, kinh rạch, chim muông thú vật, côn trùng, con người, bla bla bla .. đều do duyên mà có.
Duyên là gì? – Là duyên trợ sinh trợ lực.
Nói theo chuyên sâu hơn thì:
Đức Phật dạy rằng nếu một vị tỳ kheo hay một tu sĩ mà
Chúc các vị một ngày vui. Ngày mai chúng ta sẽ gặp lại nhau và học tiếp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
Đấy, tôi đem đoạn dưới lên tôi giải thích chỗ này. Nếu các vị là một tỳ kheo hoặc là một người có thời gian tu học nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển thì sẽ thấy một điều rất thú vị, rất ly kỳ: bên cạnh việc Đức Phật Ngài để lại cho mình Tạng Kinh, tạng A Tỳ Đàm, tạng Luật, và tất cả những gì Ngài dạy trong Tạng Luật, trong tạng A Tỳ Đàm là để khai mở tấm lòng u tối của mình, để bỏ vô minh, phiền não, tham ái, tà kiến, nghi hoặc. Đó là pháp môn tu hành cho tinh thần. Nhưng nếu các vị có hành trì, có nghiên cứu Luật Tạng thì các vị thấy một chuyện đặc biệt nữa. Là tất cả những gì Đức Phật ban hành cho vị tỳ kheo thì Ngài bảo đảm cho vị tỳ kheo hai chuyện:
- về tinh thần thì các ngươi có một hệ thống giáo lý ngon lành để tu học, để hướng đến giải thoát;
- còn về đời sống vật chất cái này chỉ có người hành trì mới tin.
Tức là Đức Phật trong giáo Pháp của Ngài có những cái xuất sắc mà mình không thể lấy mắt mình nhìn được, mà chỉ cảm bằng trí thôi. Thí dụ, như khi Ngài ban hành giới luật cấm tỳ kheo không được giữ cái này, không được cất cái kia, không được sở hữu cái nọ, bla bla bla …rồi bắt tỳ kheo phải đi đứng ăn uống như thế nào, cư xử nói năng như thế nào, tiếp xúc, giao tế với cư sĩ phải như thế nào…Nếu lấy mắt mà nhìn thì phải nói là một hệ thống giáo lý rất là khó khăn, rất gắt gao, rất khó gặm! Nhưng có một điều mà chính Ngài cũng nói rõ ‘Ta để lại một giáo pháp không chỉ về tinh thần mà còn về vật chất cho các ngươi’ là sao?
Các vị có tin không? – Một người đàn ông, một cậu thanh niên không đẹp trai lắm, có một ngoại hình ngoại diện khó ngắm. Nhưng nếu làm đúng lời Phật, y áo trang nghiêm, cư xử phải phép chừng mực thì tự nhiên vị đó trở nên một người có sắc diện đáng kính. Đó là sự thật. Lạ như vậy!
Chưa hết, rõ ràng Đức Phật không có cho vị tỳ kheo tích lũy tài sản, nhưng nếu vị tỳ kheo hành trì đúng như những gì mà Ngài đã quy định, đã ban hành trong Tạng Luật, làm đúng những gì trong Tạng Kinh, A Tỳ Đàm thì vị đó một đời ăn không hết. Lạ như vậy đó. Đó là chuyện mình không thể lấy mắt mà nhìn được, mà phải ở trong cuộc mới biết.
Tại sao tôi đang giảng cái này mà phải đi xa như vậy để các vị thấy đặc biệt chỗ đó. Tôi nói theo Kinh chớ không phải nói theo chúng tôi nghe. Tôi nhắc lại:
Đức Phật không chỉ đơn giản là dạy cho mình con đường tu hành giải thoát phiền não mà Ngài còn sắp xếp, Ngài biết rất kỹ là nếu vị tỳ kheo mà làm đúng như lời của Ngài dạy thì coi như vị đó ăn một đời cũng không hết. Chỉ cần giới luật trong sạch, kiến văn đầy đủ, nếu mà đắc Thiền đắc Đạo thì số một khỏi nói. Còn nếu chẳng may không đắc được gì hết, chỉ cần có chánh tri kiến, có giới hạnh thanh tịnh thì một đời ăn không hết, cho dầu vị đó sống ở cái chỗ khỉ ho cò gáy, ‘chó ăn đá gà ăn muối’ cũng không sao hết.
Cho nên trong đoạn 22 này nói ‘Ta lo lắng chẳng những về tinh thần mà cả vật chất cho các ngươi nữa’. Nha, đặc biệt lắm!
Ngài dạy kỹ lắm. Tức là những ai hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp, không biết giáo pháp nói cái gì, cũng không biết gì về hệ thống tăng già của Đức Phật, và cũng chẳng biết gì về hệ thống truyền thừa thì cứ đọc bài Kinh này là có hết. Ngài dạy rấy kỹ. Chẳng hạn như ở đoạn 23:
“Này các tỳ kheo, nếu có ai đó nhìn thấy các ngươi có vẻ an lạc, có vẻ sung sướng rồi họ nói xấu các ngươi. Họ nói rằng các vị sa môn thích tử của sa môn Cồ Đàm chỉ biết tu hưởng, chỉ biết tu sướng thôi thì đừng có lấy đó làm phiền mà hãy giải thích cho họ nghe thế này: Đúng, chúng tôi tu rất là hạnh phúc. Chúng tôi tu rất là sung sướng. Nhưng cái sung sướng của chúng tôi nó không đi đến từ đời sống vật chất mà nó đến từ đời sống thiền định”.
Trong Kinh Tăng Chi nói có một lần vua Pasenadi vào hầu Phật. Ổng nói : “Bạch Thế Tôn, con lấy làm là là tại sao đệ tử Thế Tôn có đời sống vật chất hạn chế, mà sao con gặp vị nào vị nấy vẻ mặt sáng trưng hà”.
Đức Phật dạy: “Này đại vương, có chắc là đại vương thấy an lạc trong một ngày một đêm, hai ngày hai đêm hay không?”.
Vua nói "Dạ không, trong một khoảnh khắc thôi là con đã không sure là con được an lạc. Nhiều khi con muốn cười lắm nhưng chuyện triều chính, rồi chuyện của tam cung lục viện nhiều khi nó ám con. Con muốn cười một chút cũng không cười nổi nữa, thì nói gì là một ngày an lạc".
Phật nói: "Như Lai và các đệ tử Như Lai thì hoàn toàn có thể an lạc như mình muốn. Các vị muốn an trú cái gì thì các vị an trú trong đó. Cho nên Như Lai và các đệ tử Như Lai an lạc được trong một ngày, hai ngày, năm ngày, bảy ngày như ý. Đó là điểm khác biệt giữa người có hành trì và không có hành trì. Đó chính là lý do vì đâu đại vương nhìn thấy các tỳ kheo có đời sống vật chất rất khiêm tốn, rất là hạn chế, thậm chí cơ cực, bần hàn nữa nhưng vị nào cũng thấy an lạc hết."
Vì đời sống tinh thần ok thì những thiếu thốn, những khoảng trống về vật chất lập tức nó không đáng kể. Cho nên nếu có ai nói tu hành là hưởng thụ thì các ngươi nói không sai. Nhưng chúng tôi hưởng cái gì? – Chúng tôi hưởng thụ niềm tịnh lạc ngay trong nội tâm chớ không phải hưởng thụ theo kiểu ngoài thế gian.
Đức Phật Ngài dạy rõ nữa nếu chỉ là tu thiền Samatha thôi thì còn an lạc nói chi một người có tu tập cả Vipassana để thành tựu 4 tầng thánh Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả.
Tiếp theo, nếu có ai đó nói các vị tỷ kheo sống không có lập trường. Có nghĩa sống rày đây mai đó. Về tình cảm thì không có quan hệ rõ ràng. Về trú xứ cũng không có một nơi chốn rõ ràng. Nói chung, đời sống một vị tỳ kheo Nguyên Thủy không có một chút ràng buộc nào hết. Thì Đức Phật ngài dạy nếu có ai đó nói các ngươi không lập trường thì các ngươi phải nói thế này. “Không phải chúng tôi không có lập trường mà chúng tôi không có sự ràng buộc thì đúng hơn”. Có một sự khác biệt rất lớn giữa cái lập trường và cái ràng buộc. “Chúng tôi không có sự ràng buộc về bất cứ gì”.
Vì sao? – Các vị trong room làm ơn nhớ cái này quan trọng: Khoa học là gì? Khoa học là nghi ngờ và thử. Trong Phật Pháp cũng y chang như vậy. Người mà tu học đúng mức không bao giờ thấy rằng chỗ mình đứng là chỗ tốt nhứt. Đó là người biết cách tu học. Trong đời sống, một đời sống thông minh chỉ có chữ ‘better’ chớ không bao giờ có chữ ‘best’. Các vị nhớ nghe chỉ có cái tốt hơn chớ không có cái tốt nhứt. Tôi nhớ tôi nói không biết là bao nhiêu lần cái này.
Nếu các vị hỏi tôi chớ 'Theo Sư, nội dung Phật Pháp là gì?" thì tôi sẽ có cách nói rất là lạ. "Nội dung Phật Pháp là hướng tới cái better, never best." Là sao?
Tham- sân- si mà so với vô tham- vô sân- vô si thì vô tham vô sân vô si là better. Sân hận, cộc cằn, thô lỗ, nhỏ mọn mà đem so với lòng vị tha, bao dung, yêu thương, từ tâm thì cái từ tâm, yêu thương nó là better. Rồi vô minh, tà kiến, ngã mạn mà đem so với trí tuệ, chánh kiến thì mình thấy chánh kiến nó better. Như vậy đời tu của mình lúc nào cũng hướng tới cái tốt hơn, nhưng đừng bao giờ dại dột nghĩ rằng mình đang ở cái tốt nhứt. Theo tôi trong tự điển người tu Phật phải bỏ chữ ‘best’. Bởi vì đừng bao giờ nghĩ tới cái tốt nhứt, mà luôn luôn nghĩ tới chữ ‘tốt hơn’ cho đến bao giờ mình chết thì thôi. Nghe! Quan điểm tu học một người hành trì đúng lời Phật là luôn luôn ở trong tình trạng hướng tới mọi cái khác cao hơn.
Ở đây sự an lạc của tỳ kheo có nhiều cách:
- sự an lạc do Giới,
- sự an lạc do Định và
- sự an lạc do Tuệ,
- sự an lạc do thành tựu Sơ, Nhị, Tam, Tứ thiền,
- sự an lạc có được do sự thành tựu Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả.
Đoạn 27:
Ngài xác nhận một điều nữa là nếu có người nghi ngờ Thế Tôn về Túc mạng minh, về Quá khứ trí và Vị lai trí thì Ngài xác định rằng Ngài có điểm đặc biệt như sau: ngoại đạo không biết Phật Pháp nếu đắc thiền thì chỉ nhớ tối đa là 40 đại kiếp. Bồ tát đã được thọ ký thì có thể nhớ được tối đa là 80 đại kiếp. Còn vị Độc Giác thời gian hành ba la mật là 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp thì cái sức nhớ quá khứ và sức quán tương lai của vị này cũng chỉ giới hạn trong 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp. Riêng hai vị thượng thủ Thinh Văn thì thời gian hành ba la mật là một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp cho nên sức nhớ các vị này cũng chỉ quẩn quanh trong một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp. Còn bà Da Du Đà La mặc dù là Thinh Văn nhưng tu theo Bồ tát , bả tu 4 a tăng kỳ nên cũng có sức nhớ 4 a tăng kỳ, bà nhớ chuyện hồi dưới chân đức Phật Nhiên Đăng. Riêng vị Chánh Đẳng Chánh Giác hạnh tinh tấn là 80 a tăng kỳ, hạnh đức tin là 40 và hạnh trí tuệ là 20 a tăng kỳ. Tuy thời gian hành ba la mật là có giới hạn nhưng khi thành Phật rồi thì sức nhớ về chư Phật Chánh Đẳng Giác về quá khứ và khả năng nhìn về tương lai không có giới hạn. Đó là chuyện mình phải nhớ.
Nhưng trong bài Kinh này, đoạn 27 có một chi tiết rất là đặc biệt. Ngài xác nhận có thể nhớ không giới hạn về quá khứ, nhưng thay vì xác nhận mình có thể soi rọi vô số kiếp vị lai, thì ở đây Ngài lại có cách nói rất bất ngờ: ‘Kiếp này tịch xong là hết’.
Các vị thấy cách nói này đặc biệt không? Chú giải nói “Thế Tôn tác ý đến bao nhiêu, nghĩ đến bao nhiêu thì nhớ đến bấy nhiêu”. Nhưng ở đây Ngài chọn cách nói rất đặc biệt: Về quá khứ thì Như Lai có thể nhớ không giới hạn, còn về tương lai thì thay vì Ngài cũng có thể nói ‘Như Lai có thể nhớ một cách không giới hạn’ thì Ngài lại không nói. Ngài nói là: “Về quá khứ thì Như Lai có thể nhớ không giới hạn, còn về tương lai thì Như Lai biết rằng kiếp này tịch xong là hết”. Đó là điểm rất đặc biệt!
Trong bài Kinh này Đức Phật có nhắc đến những điều đặc biệt sau đây:
Chư Phật chỉ nói ra điều gì dựa trên bốn tiêu chí sau đây:
1- Luôn nói sự thật.
2- Luôn nói điều hữu ích.
3- Luôn nói đúng lúc.
4- Luôn nói bằng từ tâm.
Chư Phật luôn nói sự thật là, cái gì mà chư Phật đã nói ra thì sự thật nó là như vậy chớ nó không có khác đi được.
Luôn nói điều hữu ích: là có những sự thật mà nó không có lợi ích. Thí dụ một Phật tử tới thăm ông sư và hai thầy trò có thể ngồi cả tiếng nói chuyện với nhau về cách trồng lan, trồng bonsai. Đó là những chuyện đúng sự thật nhưng theo tiêu chí thứ hai này thì sai vì nó không là điều hữu ích cho con đường giải thoát.
Luôn nói đúng lúc: ai là những bậc cha mẹ thì biết mình thương con, muốn nhắc nhở con muốn dạy con thì phải lựa lúc lựa khi. VN mình có câu ‘Trời đánh tránh bữa ăn’, nhưng nhiều người có tật lúc bình thường không la mà hễ thằng con mới cầm đũa lên thì lôi ra nói. Chuyện đó có thiệt. Nói vậy là phi thời. Chư Phật thì luôn luôn nói điều đúng sự thật. Luôn luôn nói điều lợi ích và thứ ba nữa là nói đúng lúc đúng thời. Điều thứ tư là chư Phật luôn luôn nói bằng từ tâm.
Ở đây Thế Tôn định nghĩa chữ ‘Như Lai’:
1- Không gì nhân thiên biết mà Ngài không biết.
2- Trọn đời chỉ nói chân lý.
3- Nói sao làm vậy và ngược lại (làm sao thì nói vậy).
4- Không ai trong nhân thiên có thể hơn được Ngài về bất cứ mặt nào trong thiện pháp và trí tuệ.
( Từ đây về sau chúng tôi nói gọn thôi, chúng tôi đem phần sau trộn chung lại nghe).
Đoạn cuối Kinh này xác định rằng một người học hiểu Tứ Niệm Xứ một cách đàng hoàng thì không thể mắc vào những quan điểm tri kiến vớ vẩn vô ích và nguy hiểm về bản thân và thế giới nói chung.
(Đó, nội dung bài Kinh là vậy. Nếu ngay bây giờ mà tôi đóng sách lại không giảng nữa thì quý vị cũng học xong bài Kinh).
Vì sao đoạn cuối bài Kinh nói vậy? Kinh Tứ Niệm Xứ dạy mình cái gì? – Kinh Tứ Niệm Xứ trước hết dạy về Bốn Đế:
- Khổ đế: Mọi hiện hữu là khổ. Tất cả những gì ta thấy được, nghe, ngửi, nếm, đụng được trên đời này nó đều là khổ.
- Tập đế: Sự thật về khổ thứ hai là nếu mọi thứ ở đời là khổ thì bất cứ cái gì ta đam mê cũng đều là đam mê trong khổ. Đam mê cái gì cũng là đam mê trong khổ do thích trong khổ nên mới đầu tư thêm khổ.
- Đạo đế: là hành trình nhàm chán khổ đế để chấm dứt Tập đế.
- Diệt đế: khi sự nhàm chán đã đúng mức thì sự đam mê sẽ vắng mặt. Niết bàn là sự vắng mặt của tất cả niềm đam mê.
- Ở bước sơ cơ ta học hiểu rằng thiện là nhân lành cho quả vui. Ác là nhân xấu cho quả khổ.
- Ở bước tiếp theo hành giả thấy rằng buồn vui đều là khổ nên thiện ác đều là nhân khổ, trực hay gián tiếp mà thôi.
Tuy vậy, ta tiếp tục lánh ác làm thiện theo tinh thần Tứ Niệm Xứ, nghĩa là LÀM MÀ KHÔNG NẶNG LÒNG TỰ THỊ, chỉ xem việc tu học như chuyện uống thuốc chữa bịnh mà thôi. Hành giả Tứ Niệm Xứ biết đây là thiện, đây là bất thiện, đây là khổ, đây là vui, biết rõ. Nhưng không vì thấy mình tu tập tiến bộ rồi sanh tâm kiêu ngạo vì xem tu học chỉ là uống thuốc chữa bịnh mà thôi.
Thì với một người nhận thức được như vậy không biết chừng nào đắc, nhưng trước mắt họ không còn kẹt vào mấy cái tà kiến mà trong Kinh này vừa kể (Như thấy thế giới này là thường, lạc, ngã, tịnh; thế giới này là vô biên hay hữu biên; thế giới này do mình tạo ra hay người khác tạo ra). Mà tất cả là do duyên hết.
--ooOoo--
Duyên Hệ
Hành giả thấy rằng mỗi thứ trong đời đều do duyên tạo mà có.
Có hai thứ duyên:
- trợ sinh và
- trợ lực.
Ngay đến bản thân sự mất còn của cái này cái nọ cũng là duyên, vì chúng khiến cái gì đó có mặt hay mất đi. Thí dụ chủ cũ phải bán nhà thì chủ mới mới vô ở được. Phải ly dị người cũ mới cưới người mới được. Cho nên sự vắng mặt của cái này nó là điều kiện cho cái kia có mặt.
Rồi có trường hợp chính vì cái này có mặt nên cái kia mới có mặt.
Rồi có trường hợp cái này vắng mặt cái kia mới có mặt, mà A Tỳ Đàm gọi là Ly khứ duyên (Vô hữu duyên) là nhiều khi chính sự vắng mặt của cái này nó là điều kiện cho cái kia có mặt.
Tiền sanh duyên: Có trường hợp cái này giúp cho cái kia bằng cách nó có mặt trước.
Hậu sanh duyên: có trường hợp cái này giúp cho cái kia có mặt bằng cách nó có mặt sau.
Chính vì chiều nay có đám cưới nên chỗ này bây giờ đang được trang hoàng. Đám cưới là nguyên nhân nhưng xuất hiện sau. Trang hoàng là quả nhưng có mặt trước.
Câu sanh duyên (đồng sanh duyên): như cô dâu và chú rể cùng lúc có mặt, cùng lúc trao nhẫn cùng lúc nâng ly thì mới làm đám cưới được.
Như vậy, thế giới này là nơi gặp gỡ của các duyên. Ngoài duyên ra không còn gì hết. Thì hành giả thấy là cái gọi thằng Tèo thằng Tý, là nam nữ, đực cái trống mái, hạnh phúc đau khổ, niềm vui hay nụ cười, thấy tất cả trăng sao hoa lá, kinh rạch, chim muông thú vật, côn trùng, con người, bla bla bla .. đều do duyên mà có.
Duyên là gì? – Là duyên trợ sinh trợ lực.
- Nó chưa có làm cho có là trợ sinh.
- Trợ lực là nó có rồi mà làm cho nó phát triển mạnh lên, vững vàng hơn.
Nói theo chuyên sâu hơn thì:
- các pháp giúp nhau bằng cách có mặt,
- các pháp giúp nhau bằng cách vắng mặt,
- các pháp giúp nhau bằng cách cùng có mặt.
Đức Phật dạy rằng nếu một vị tỳ kheo hay một tu sĩ mà
- có tu tập,
- có học hiểu,
- có hành trì Tứ Niệm Xứ như trên
- trong vô minh,
- trong tà kiến,
- trong hoài nghi, …
Chúc các vị một ngày vui. Ngày mai chúng ta sẽ gặp lại nhau và học tiếp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh