2022-03-27, 12:53 AM
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
25. Kinh Ưu-đàm-bà-la sư tử hống
(Udumbarikà-Sìhanàda sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong25.htm
--ooOoo--
25. KINH ƯU-ĐÀM-BÀ-LA SƯ-TỬ HỐNG
--ooOoo--
Hôm nay mình học Kinh Ưu đàm bà la Sư Tử Hống. Nội dung Kinh này quý vị thấy rồi. Có một nhóm du sĩ trong khu vườn Udumbarika , chữ này có chỗ dịch là ‘Cây Sung’. Nội dung là cuộc đối thoại giữa Thế Tôn và các du sĩ do ông Nigrodha cầm đầu. Chúng tôi giảng phải chèn tờ giấy nên không dùng bàn phím được. Mọi việc xin trông cậy vào quý vị nghe.
Các du sĩ có đề nghị với Đức Phật, xin Đức Thế Tôn giảng cho họ nghe về pháp môn hay con đường hành trì mà Ngài vẫn thường giảng cho các đệ tử của Ngài. Đức Phật nhìn thấy căn tánh của các vị này cho nên Ngài chọn cách thuyết giảng gián tiếp. Thay vì trực tiếp nói con đường hành trì theo tinh thần Tam học, tinh thần Bát Chánh Đạo một cách trực tiếp thì trước hết Thế Tôn nói về pháp môn khổ hạnh trước.
Ngài nói rằng dầu có hành trì bao nhiêu pháp môn khổ hạnh, nhưng quan trọng nhứt khi anh hành trì pháp môn khổ hạnh bằng tâm trạng là khen mình chê người, nghĩa là tu được bao nhiêu thấy mình hay bấy nhiêu rồi coi người khác không ra gì. Ngài nói có bao nhiêu pháp môn tu hành đi nữa mà nếu người tu không có tâm buông bỏ, không có lòng hướng đến giải thoát buông bỏ phiền não, mà cứ một mực tu tập từ góc độ ngã chấp thì như vậy càng tu tập càng thêm cấu uế, càng khiến cho mình trở nên bất tịnh mà thôi.
Chuyện này rất quan trọng, mà có thể nói 99%, nói huỵch tẹt luôn là người Việt mình không chú ý điểm này. Cứ chọn rồi cho rằng con đường mình đang đi, cái kiểu cách tu hành, hành trì của mình là số một. Rồi mình nhìn người khác coi người ta không ra gì hết. Tôi nói rõ nghe, cho dầu mình đi đúng đường, cho dầu mình đang tu tập giới định tuệ bằng tinh thần đó là đã không xong rồi; nói chi con đường hành trì không nằm trong Đạo đế, không nằm trong Bát chánh Đạo và lại không hướng đến Diệt đế (Niết bàn). Bởi vì nếu mình thấy mọi hiện hữu là khổ - như hôm qua tôi nói, thế giới chỉ là thiện- ác- buồn- vui thôi. Chính cái thiện nó tạo ra cái vui, mà cái ác tạo ra cái buồn.
Thiện (6 căn biết 6 trần bằng tâm lành) => hạnh phúc (6 căn biết 6 trần như ý) là quả.
Ác (6 căn biết 6 trần bằng tâm bất thiện) => đau khổ (6 căn biết 6 trần bất toại) là quả.
Nếu hiểu như vậy thì thấy rằng có mặt ở đâu trong trời đất này, từ cõi Phi tưởng phi phi tưởng (cõi cao nhất trong tam giới) cho đến cõi thấp nhất là các tầng địa ngục, hay các cảnh giới bàng sinh (trùn, dế, sâu, giòi, côn trùng …), hoặc mấy lần đi biển chúng tôi nhìn mấy con oyster (con hàu) bám trong đá chúng tôi phải nói là rùng mình. Nghĩ rằng bây giờ mình chun vô đó làm một con hàu trong đá thì không biết kiếp nào ra khỏi. Bởi vì cơ hội làm lành, cơ hội hướng tâm về điều thiện thì làm sao có ở cái con hàu như vậy, ở con trùn trong đất như vậy! Cơ hội ở mấy con đó thấp lắm! Mà ba cõi mình cứ luân phiên mình đi lúc trồi lên lúc lặn xuống. Thấy như vậy thì mới chán mới sợ sanh tử.
Pháp môn Tứ Niệm Xứ là quan sát 6 căn, cũng chính là quan sát 5 uẩn, cũng chính là quan sát 12 xứ, cũng chính là quan sát 18 giới coi nó hoạt động ra sao. Lúc đầu chỉ biết ghi nhận nó đang ra sao rồi dần dần mới ngộ ra nhiều chuyện. Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần, lúc đầu cứ giữ chánh niệm đi. Đừng có nghe người ta bày là quán chiếu quán chiếu. .. Tôi năn nỉ đừng có ham cái đó. Cứ sống chánh niệm một thời gian, tự dưng một lúc nào đó, 2 ngày, 5 ngày, 1 tháng, 2 tháng, 6 tháng, tự nhiên trong cái chánh niệm đó cộng với kiến thức Phật Pháp của mình thì tự nhiên mình ngộ ra những điều mà mình không có từng nghĩ tới, hoặc cho mình có biết mà biết ‘qua nước bọt’ của người khác, biết qua kiểu cà phê dão thôi.
Khi mình sống chánh niệm lâu ngày mình mới thấy rằng cái gọi là ‘tôi’ nó chỉ là sự lắp ráp của các thành tố danh sắc. Của hơi thở trước hơi thở sau. Của những hơi thở vào hơi thở ra. Của những tâm thiện tâm ác. Của những cảm xúc buồn cảm xúc vui. Và rõ ràng không hề có một cái gì mà nó tồn tại liên tục quá một giây đồng hồ. Danh sắc cứ tiếp nối nhau sanh diệt. Khi đó hành giả mới thấy ra những điều:
1/ Buông bỏ ý niệm ‘tôi’ và ‘của tôi’. Từ đó mới thấy rằng mình có đắc gì đi nữa cũng là chứng đắc cái vô ngã vô thường. Chớ không có gì ghê gớm để mình có thể chấp chặt vào trong đó.
2/ Tôi cũng đã nói rất nhiều lần là học giáo lý cho nhiều, mà giáo lý đó, cái biết đó nó không đủ để giảm bớt phiền não của mình, để cắt đứt phiền não của mình, không đủ để thay đổi cái nhìn tào lao của mình thì cái biết đó giống như nước biển vậy. Nghĩa là một người đi trên biển dưới chân là nước nhưng họ vẫn hoàn toàn có thể chết khát. Phật Pháp học cho nhiều, mà học kiểu gì tôi không biết, hành kiểu gì tôi không biết, miễn là cách học cách hành đó nó không đủ để mình giảm bớt phiền não, giảm bớt cái tham cái thích, giảm bớt sân giận, bất mãn, chống đối, hiềm khích, bla bla bla… thì cái biết đó giống như nước biển vậy. Đúng nó là nước. Nó có thể cho mình chút cảm giác mát mát, cho mình chút dễ chịu của người tắm biển, nhưng ta hòan toàn có thể chết khát trên cái vùng biển mình có mặt. Vì sao? – Là vì nước đó không uống được!
Nhớ nghe, thuộc lòng Tam tạng mà chưa có hành trì, hoặc hành trì không đúng mức, chưa đúng cách thì cũng giống như người đi trên biển mà chịu chết khát vậy!
3/ Cho nên ở đây Ngài mới nói có hành trì bao nhiêu đi nữa mà nếu không quán chiếu danh sắc, ngũ uẩn, tiếp tục hành trì trong ý niệm đam mê danh đam mê lợi, đam mê trong sở đắc, sở chứng, trong thành tựu nhỏ nhít của mình thì khổ hạnh đó chỉ làm mình khổ thân thôi, chớ cũng chẳng được lợi ích gì hết. Chú giải có nói một chuyện quan trọng là đề nghị chúng ta xem lại bài Kinh Lõi Cây – Mahasaropama sutta (Trung Bộ Kinh). Chính Chú giải đã xác nhận như vậy, đề nghị chúng ta xem lại bài Lõi Cây.
Bài Kinh Lõi Cây Đức Phật Ngài dạy: chánh Pháp Ngài dạy giống như một cội danh mộc. Có những người đến với Đạo, đi xuất gia rồi được người cúng dường, được trọng vọng, lễ bái nổi tiếng. Ngài nói những cái được đó chỉ là cành lá của cây danh mộc thôi.
Tiếp theo, đối với người thành tựu giới hạnh, không vì danh vì lợi mà vi phạm giới hạnh thì vị này đi đến một bước nữa, vượt qua khỏi cành lá nhưng còn bị vướng kẹt ở vỏ ngoài, cái vỏ sần sùi của cây.
Thứ ba là người tu tập thiền định được coi là vượt qua khỏi lớp vỏ sần sùi mà vô lớp vỏ trong. Người thành tựu Ngũ thông (Thắng trí hiệp thế) mà ở đây phải hiểu là Ngũ thông, là thành tựu các loại thần thông của phàm phu như thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng thông, sanh tử thông. Thành tựu 5 cái này được gọi là Lokiyania.
Phải có cái thứ sáu nữa là Lậu tận trí (Lậu tận thông) thì mới kể là thánh. Còn nếu mới chỉ có 5 thần thông kia mà bay nhảy tung tăng soi rọi thế giới, lắng nghe cuộc đời thì Ngài nói cái đó mới chỉ là giác cây thôi.
Tôi nhắc lại:
Đó là đối với con đường Bát Chánh Đạo mà còn như vậy thì nói chi người đam mê trong các pháp môn khổ hạnh, trong các pháp môn thuộc về giới cấm thủ.
Cho nên ở đây Ngài dạy rõ, Ngài kêu tu tập Chỉ Quán song tu. Thiền Chỉ hiểu rộng là 40 đề mục, nhưng trong bài Kinh này Thiền Chỉ mà Ngài đề nghị là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.
Nhưng phải nói rõ pháp môn niệm Phật trong Phật giáo Nam truyền Pali Tạng thì cách niệm ở đây khác bên Tịnh Độ.
Thí dụ mình niệm Thế Tôn, Thế Tôn theo tiếng Hán không giống chữ Pali. Pali, Thế Tôn là ‘Bhagava’ là người thành tựu tất cả điều tốt đẹp nhứt, an lạc nhứt.
Phật là gì?
Chữ ‘Sugato’: Thiện Thệ cũng có nhiều nghĩa. Thiện thệ là bậc đã đến và đi trên con đường đẹp nhất mà chư Phật ba đời mười phương đã đến và đi. Đã đến và đi theo cách đẹp nhất. Chữ ‘Thệ’ này hay có hay nhưng không có lột được hết nghĩa chữ Sugato. ‘Thệ’ đây có nghĩa là đi luôn không có về. Như Khổng Tử đứng nhìn dòng nước chảy nói: “Thệ như tư phù bất xả trú dạ” (Dòng nước cứ trôi đi biền biệt không quay về suốt cả ngày lẫn đêm – xả: dừng; trú dạ: ngày đêm). Chuyện đời cũng giống vậy thôi. Chữ sugato ở đây dịch Thiện thệ là nghĩa khác.
Rồi ‘Purisaradammasarathi’ : Điều Ngự Trượng Phu, nghĩa là thay vì đi xe bò dạy bò điều khiển bò, cỡi voi thì điều khiển voi, đi xe ngựa điều khiển ngựa, nhưng riêng Thế Tôn có khả năng điều khiển nhân thiên trong ba giới bốn loài trong đời này. Người ta chỉ có khả năng dạy thú nhưng Ngài có khả năng dạy cả trời, người, gọi là Purisaradammasarathi.
‘damma’ : well train = khéo, giỏi, người đã được đào tạo ngon lành.
‘sarathi’ : người đánh xe = xa phu
‘purisa’ chỉ chung cho nhân, thiên.
Bla bla bla … mười hồng danh như vậy. Niệm Phật bên Phật giáo Nam truyền là niệm như vậy đó, từng hồng danh một của chư Phật chớ không phải của một đức Phật nào hết. Nhờ niệm như vậy công đức vô lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Trong bài Kinh này Đức Thế Tôn không nói hết 40 đề mục mà Ngài chọn 4 đề mục Phạm trú (pháp Phạm thiên, luôn luôn an trú thường trực). Đó là từ- bi- hỷ- xả.
- Từ là mong cho người ta được an lạc an lành.
- Bi là mong cho người ta đừng có khổ. Tức là lòng mình có bất nhẫn, có trắc ẩn trước nỗi đau của chúng sinh.
- Hỷ là vui với nhân lành và quả lành của người khác.
Khổ một nỗi là KHI KHÔNG HÀNH TRÌ THÌ TẤT CẢ LỜI PHẬT ĐỀU KHÓ HIỂU KHÓ TIN. Khi có hành trì mình mới thấy ra chuyện đó, có nghĩa là:
Bữa hổm mình có học nhân sanh các Giác Chi bà con còn nhớ không?
Cho nên muốn tu tập bốn Phạm trú này hành giả trước hết phải lánh xa môi trường có tiềm ẩn nguy cơ tác động tiêu cực lên công phu mình đang tu tập, đang hành trì.
Tôi dừng lại hơi lâu ở đề mục Bốn Phạm trú là tại vì bản thân tôi có một tâm nguyện. Bây giờ tôi 47 rồi, nhiều lắm là 3 năm nữa 50 tuổi là cái chết.
Chớ còn mình rải tâm từ cái kiểu mỗi ngày ngồi thiền rải sơ sơ thì không phải là kiểu Phạm trú trong Kinh đề nghị. Rải kiểu mình vậy không thể đắc Định. Còn kiểu tu tâm Từ như Đức Phật dạy là có thể dẫn đến đắc Định. Rải như vầy:
- Đối tượng: bao nhiêu đối tượng: nam, nữ, phàm, thánh, siêu, đọa.
- Hướng: Đối tượng nhân với 10 hướng gồm đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới = 10
- Các lời nguyện, như mong cho họ được an lạc. Mong cho họ đừng oan trái lẫn nhau. Mong cho họ đừng có sầu muộn. Mong cho họ đừng có sợ hãi. Mong cho họ hãy biết tự bảo trọng lấy mình.
Bao nhiêu lời nguyện nhân với hướng nhân với đối tượng (đối tượng x hướng x lời nguyện) – (Xin xem lại quyển A Tỳ Đàm bìa xanh có hình tháp ở trước. Hoặc Thanh Tịnh Đạo, đọc phần Định, Bốn Phạm trú).
Cách Từ Bi Quán, rải Bốn Phạm trú là như vậy đó. Thí dụ:
Xin cho tất cả người nam ở hướng đông được bốn, năm điều gì đó. Rồi xin cho tất cả người nam ở hướng tây được gì gì đó. Xin cho tất cả người nam ở hướng nam được cái gì đó, rồi tất cả người nam ở hướng bắc được gì gì đó. Xin cho tất cả người nam ở các hướng phụ… gì gì đó.
Rồi qua nữ: xin cho tất cả người nữ ở hướng nam được cái gì, ở hướng bắc được cái gì, bla, bla, bla …
Các vị tưởng tượng đi, chỉ hình dung là đã thấy muốn định rồi. Có nghĩa là quý vị chỉ cần phóng tâm một chút, phóng dật một chút thì làm sao có thể rải chính xác đối tượng đó, hướng đó rồi lời nguyện nào, tổng cộng vậy là mấy trăm. Lòng mình dán chặt vào trong đó làm sao nó phóng nổi. Và nếu đủ duyên thì nó đắc định, mà công đức thì vô lượng.
1. Phước lớn thứ nhứt: Phước vật.
Phước vật là sự chia sẻ vật chất của mình cho người khác.
Thứ hai là nội tâm người thực hiện công đức bố thí. Anh thực hiện điều đó bằng sự tự phát hay do dự hay sự tác động, tức hữu trợ hay vô trợ. Khi anh thực hiện vậy có bằng sự can thiệp của trí tuệ hay không, tức hợp trí hay ly trí.
Thứ ba là thọ hỷ hay thọ xả. Nên tâm trạng người bố thí cũng quan trọng.
Như vậy vật thí, tâm trạng người bố thí, thứ ba là đối tượng bố thí. Đối tượng đó là có đức độ hay không, là cá nhân hay tập thể, là người có hữu ân với mình hay không (như cha mẹ).
Có thể tuy cha mẹ là người không đức độ, người không có giới tu, nhưng cha mẹ đối với con luôn có từ bi hỷ xả, dĩ nhiên phần tham ái tôi không nói, thì trên đời này không có ai dám chết cho mình trừ cha mẹ, không có ai dám nhịn ăn nhịn mặc, dám chịu phần thiệt để tốt cho mình trừ cha mẹ. Cho nên đền đáp cho cha mẹ cũng là một công đức lớn.
Đối tượng tập thể có nhiều phước hơn cá nhân. Đối tượng có đức độ nhiều phước hơn đối tượng không có đức độ. Đối tượng hữu ân với mình sẽ nhiều công đức hơn người không có gì với mình. Thí dụ cho bà hàng xóm không bằng cho má mình. Nhưng nói hơn đây cho biết vậy thôi, chớ không phải suốt đời mình đi kiếm chỉ ba hạng này thôi mà không đếm xỉa những người khác.
Đó là phước vật. Trong Kinh nói quả báo phước vật lớn nhứt là cúng dường cho tập thể Tứ phương tăng. Bởi tứ phương tăng vừa đáp ứng cùng một lúc các điều kiện: nói tới tăng là phải có đức độ (tăng tào lao thì không kể). Thứ hai, tăng là tập thể.
Cho nên ba cái phước vật, phước đức, phước trí gồm ba con số bốn:
* Phước vật không gì hơn Tứ phương tăng. Nhưng đừng vậy mà buồn tủi nói tui nghèo tui lấy gì cúng cho tứ phương tăng. Mình nghèo mình vẫn có thể cúng theo cách nghèo của mình. Thí dụ mình mua cái ấm nhôm để vô chùa cho chư tăng mười phương họ tới có họ xài. Mua cây chổi cỏ để trong chùa cho người ta lấy đó quét dọn chùa, chư tăng tới được sạch sẽ. Tức là mua cái gì mà đám đông có thể xài như cái thảm chùi chân,…
2. Phước lớn thứ hai: Phước đức.
Phước đức đây không có gì qua được Bốn vô lượng tâm. Đó, nãy tôi nói 7 năm tu vô lượng tâm là chỗ đó.
Digha Nikaya
25. Kinh Ưu-đàm-bà-la sư tử hống
(Udumbarikà-Sìhanàda sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong25.htm
--ooOoo--
25. KINH ƯU-ĐÀM-BÀ-LA SƯ-TỬ HỐNG
118. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH ƯU-ĐÀM-BÀ-LA SƯ-TỬ HỐNG?
Vào một thời kia, đức Phật ngụ ở núi Kỳ-xà-quật (Gijjhakùta), gần thành Vương-xá (Ràjagaha). Vào một buổi chiều, có gia-chủ Tán-đà-na (Sandhana) đến vườn hoa của nữ-hoàng Ưu-đàm-bà-la (Udumbarika) gặp du-sĩ Ni-câu-đà (Nigrodha), cùng với các du-sĩ ngoại-đạo khác đang bàn chuyện phiếm rất ồn-ào. Chặp sau, thấy Thế-Tôn đi đến, hội-trường im-lặng lại, và du-sĩ Ni-câu-đà mời đức Phật trả lời câu hỏi mà họ đang bàn-luận: ''Pháp nào được Thế-Tôn dạy cho các đệ-tử được tịnh-lạc và xem là căn-bản phạm-hạnh?''.
Nhơn đó, đức Phật trước vạch cho họ thấy các lối tu khổ-hạnh của ngoại-đạo chỉ đem lại sự ô-uế; rồi sau đó, Ngài giảng rõ các pháp-tu như: (1) dẹp năm triền-cái, (2) tu-tập bốn tâm vô-lượng, (3) hướng tâm đến Túc-mạng-minh, Thiên-nhãn thuần-tịnh; được đem chỉ-dạy cho các đệ-tử để làm căn-bản phạm-hạnh.
Bấy giờ, khi nghe gia-chủ Tán-đà-na nhắc lại lời du-sĩ Ni-câu-đà trước đây có chỉ-trích đức Phật không đủ sức thuyết-pháp, vị du-sĩ nầy liền xin thú-tội và được Thế-Tôn chấp-nhận. Đức Phật lại bảo, ai tin theo và tu-tập Chánh-Pháp của Ngài, chỉ trong vòng bảy ngày là có thể hưởng được quả-báo an-lành. Nhưng tiếc thay, các du-sĩ ngoại-đạo cứ ngồi ủ-rũ, im-lặng, tâm-tư còn bị tà-kiến đè nặng, chẳng biết nghe lời khuyến-cáo. Đức Phật liền rống tiếng rống con sư-tử tại vườn Ưu-đàm, rồi ra về.
119. NỘI-DUNG KINH ƯU-ĐÀM-BÀ-LA SƯ-TỬ HỐNG.
Tên Kinh Ưu-Đàm-Bà-La Sư-Tử Hống dịch từ chữ Pali, Umdumbarika Sihanàda Suttanta, nên nghe lạ tai. Udumbarika là tên vị nữ-hoàng chủ ngôi vườn; Sihanàda là tiếng sư-tử rống (hống= rống); Suttanta là Kinh.
A.- Ý Chánh: Lời giảng Chánh-Pháp của đức Phật như tiếng rống của con sư-tử; tiếc thay bọn ngoại-đạo mắc tà-kiến nặng-nề nên chẳng biết tin theo.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia ra bốn phần:
1. Phần I: Các du-sĩ ngoại-đạo bàn-luận ồn-ào trong vườn Ưu-đàm-bà-la:
- Gia-chủ Tản-đà-na đến gặp du-sĩ Ni-câu-đà;
- Lời chỉ-trích của Ni-câu-đà rằng đức Phật chẳng biết thuyết-pháp;
- Ni-câu-đà thỉnh Phật giảng: Pháp nào là Pháp được dạy cho đệ-tử làm căn-bản phạm-hạnh.
2. Phần II: Đức Phật vạch rõ chỗ sai-lầm trong lối tu khổ-hạnh của ngoại-đạo.
- Trước hết, đức Phật chỉ-trích lối tu khổ-hạnh ép-xác của ngoại-đạo: luôn luôn đứng, hoặc ngồi chò-hỏ, hoặc bò lết như chó, liếm tay cho sạch chẳng rửa, v.v... (xin xem thêm chi-tiết ở bản Kinh số 7: Kassapa)
- Lối tu khổ-hạnh ngoại-đạo đưa đến nhiều cấu-uế: hoan-hỷ và tự-mãn, chê người, mong có nhiều đồ-đệ, mong được cúng-dường hậu-hĩ, hay tức-giận, và oán-thù, mang nhiều tà-kiến...
3. Phần III: Đức Phật giảng Chánh-Pháp
- bốn pháp chế-ngự (về Luật): chẳng sát-sanh, chẳbg trộm-cắp, chẳng tà-hành, chẳng nói dối.
- diệt năm triền-cái: tham, sân, hôn-trầm thụy-miên, trạo hối và nghi;
- tu-tập bốn tâm vô-lượng: từ, bi, hỷ, xả;
- hướng tâm đến Túc-mạng-minh và Thiên-nhãn thuần-tịnh.
4. Phần IV: Gia-chủ Tán-đà-na nhắc lại lời Ni-câu-đà đã chỉ-trích đức Phật chẳng biết thuyết-pháp.
- Ni-câu-đà xin thú-tội vì đã chỉ trích sai-lầm; đức Phật chấp-nhận lời chịu tội nầy.
- Đức Phật bảo, ai biết tin và tu-tập theo Chánh-Pháp, trong vòng bảy ngày, sẽ hưởng được quả-báo an-lành.
- Trước cảnh-tượng các du-sĩ ngoại-đạo chỉ ngồi ủ-rũ, câm-lặng, mang nặng tà-kiến, đức Phật rống lên tiếng rống sư-tử, rồi ra về.
120. TRÍCH-ĐOẠN: LỜI CHỈ TRÍCH ĐỨC PHẬT CỦA DU-SĨ NI-CÂU-ĐÀ VÀ XIN THÚ-TỘI.
... Nầy Tôn-giả Nigrodha, có nói,... ''Sa-môn Gotama luận-đàm với ai? Đối-thoại với ai?... Trí-tuệ của Sa-môn Gotama bị hư-hoại vì sống với không-xứ. Sa-môn Gotama không giỏi để điểu-khiển một hội-chúng, không đủ sức để đối-thoại, chỉ đề-cập đến những vấn-đề ngoại-biên. Cũng như con bò một mắt, đi vòng tròn và chỉ đi phía bên ngoài ... Nếu Sa-môn Gotama đến tại hội-chúng nầy, chỉ có một câu hỏi, chúng tôi có thể chận đứng ngay... có thể lăn tròn Sa-môn Gotama như lăn tròn một cái bình không.'' Nay Thế-Tôn đã đến đây, Tôn-giả hãy chứng tỏ... làm cho Thế-Tôn ... lăn tròn như một cái bình không.
Khi nghe nói vậy, du-sĩ Nigrodha ngồi im-lặng, ủ rũ, vai sụp xuống, gục đầu, ưu-tư ...
- Bạch Thế-Tôn, con đã phạm tội một cách ngu-si, mờ-ám, bất-thiện, khi con nói về Thế-Tôn như vậy, ... mong Thế-Tôn chấp-nhận cho tội ấy là phạm tội, để con ngăn-ngừa về sau.
- Nầy Nigrodha, ... Ta chấp-nhận tội của Ngươi ... ai thấy phạm tội là phạm tội và phát-lộ đúng với hành-động, thời tương-lai sẽ được ngăn-ngừa.
121. HỌC KINH ƯU-ĐÀM-BÀ-LA, CHÚ Ý ĐIỂM NÀO?
1. Các điểm quan-trọng trong Kinh nầy đều đã có nơi các Kinh số 2: Sa-Môn Quả, Kinh số 7: Kassapa.
2. Với tên Kinh Ưu-đàm-bà-la Sư-tử Hống, Kinh nầy ví lời thuyết-pháp hùng-hồn của đức Phật giữa đám ngoại-đạo còn mắc tà-kiến khiến họ phải run-sợ, câm miệng, với tiếng rống của con sư-tử giữa bầy thú rừng kinh-khiếp trước chúa sơn lâm, đáng làm cho ta phải suy-gẫm mà sớm vứt bỏ ngay các ý-kiến cố-chấp.
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Ưu-Đàm-Bà-La Sư Tử Hống (1-2)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=ba741pCVn9s&abt=Kinh+%C6%AFu-%C4%90%C3%A0m-B%C3%A0-La+S%C6%B0+T%E1%BB%AD+H%E1%BB%91ng
Kinh Ưu-Đàm-Bà-La Sư Tử Hống
Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
28/02/2022 - 04:12 - buithibuukim
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=ba741pCVn9s&abt=Kinh+%C6%AFu-%C4%90%C3%A0m-B%C3%A0-La+S%C6%B0+T%E1%BB%AD+H%E1%BB%91ng
Kinh Ưu-Đàm-Bà-La Sư Tử Hống
Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
28/02/2022 - 04:12 - buithibuukim
KINH ƯU-ĐÀM-BÀ-LA SƯ TỬ HỐNG – Udumbarika –Sihanada sutta
Giảng ngày 18/10/2016
Giảng ngày 18/10/2016
Bây giờ tôi đổi chiến thuật là mỗi ngày giảng không nhiều nữa. Giảng ít thôi, đỡ mệt mình mà đỡ mệt cho người ta.
Hôm nay mình học Kinh Ưu đàm bà la Sư Tử Hống. Nội dung Kinh này quý vị thấy rồi. Có một nhóm du sĩ trong khu vườn Udumbarika , chữ này có chỗ dịch là ‘Cây Sung’. Nội dung là cuộc đối thoại giữa Thế Tôn và các du sĩ do ông Nigrodha cầm đầu. Chúng tôi giảng phải chèn tờ giấy nên không dùng bàn phím được. Mọi việc xin trông cậy vào quý vị nghe.
Các du sĩ có đề nghị với Đức Phật, xin Đức Thế Tôn giảng cho họ nghe về pháp môn hay con đường hành trì mà Ngài vẫn thường giảng cho các đệ tử của Ngài. Đức Phật nhìn thấy căn tánh của các vị này cho nên Ngài chọn cách thuyết giảng gián tiếp. Thay vì trực tiếp nói con đường hành trì theo tinh thần Tam học, tinh thần Bát Chánh Đạo một cách trực tiếp thì trước hết Thế Tôn nói về pháp môn khổ hạnh trước.
Ngài nói rằng dầu có hành trì bao nhiêu pháp môn khổ hạnh, nhưng quan trọng nhứt khi anh hành trì pháp môn khổ hạnh bằng tâm trạng là khen mình chê người, nghĩa là tu được bao nhiêu thấy mình hay bấy nhiêu rồi coi người khác không ra gì. Ngài nói có bao nhiêu pháp môn tu hành đi nữa mà nếu người tu không có tâm buông bỏ, không có lòng hướng đến giải thoát buông bỏ phiền não, mà cứ một mực tu tập từ góc độ ngã chấp thì như vậy càng tu tập càng thêm cấu uế, càng khiến cho mình trở nên bất tịnh mà thôi.
Chuyện này rất quan trọng, mà có thể nói 99%, nói huỵch tẹt luôn là người Việt mình không chú ý điểm này. Cứ chọn rồi cho rằng con đường mình đang đi, cái kiểu cách tu hành, hành trì của mình là số một. Rồi mình nhìn người khác coi người ta không ra gì hết. Tôi nói rõ nghe, cho dầu mình đi đúng đường, cho dầu mình đang tu tập giới định tuệ bằng tinh thần đó là đã không xong rồi; nói chi con đường hành trì không nằm trong Đạo đế, không nằm trong Bát chánh Đạo và lại không hướng đến Diệt đế (Niết bàn). Bởi vì nếu mình thấy mọi hiện hữu là khổ - như hôm qua tôi nói, thế giới chỉ là thiện- ác- buồn- vui thôi. Chính cái thiện nó tạo ra cái vui, mà cái ác tạo ra cái buồn.
Thiện (6 căn biết 6 trần bằng tâm lành) => hạnh phúc (6 căn biết 6 trần như ý) là quả.
Ác (6 căn biết 6 trần bằng tâm bất thiện) => đau khổ (6 căn biết 6 trần bất toại) là quả.
Nếu hiểu như vậy thì thấy rằng có mặt ở đâu trong trời đất này, từ cõi Phi tưởng phi phi tưởng (cõi cao nhất trong tam giới) cho đến cõi thấp nhất là các tầng địa ngục, hay các cảnh giới bàng sinh (trùn, dế, sâu, giòi, côn trùng …), hoặc mấy lần đi biển chúng tôi nhìn mấy con oyster (con hàu) bám trong đá chúng tôi phải nói là rùng mình. Nghĩ rằng bây giờ mình chun vô đó làm một con hàu trong đá thì không biết kiếp nào ra khỏi. Bởi vì cơ hội làm lành, cơ hội hướng tâm về điều thiện thì làm sao có ở cái con hàu như vậy, ở con trùn trong đất như vậy! Cơ hội ở mấy con đó thấp lắm! Mà ba cõi mình cứ luân phiên mình đi lúc trồi lên lúc lặn xuống. Thấy như vậy thì mới chán mới sợ sanh tử.
Pháp môn Tứ Niệm Xứ là quan sát 6 căn, cũng chính là quan sát 5 uẩn, cũng chính là quan sát 12 xứ, cũng chính là quan sát 18 giới coi nó hoạt động ra sao. Lúc đầu chỉ biết ghi nhận nó đang ra sao rồi dần dần mới ngộ ra nhiều chuyện. Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần, lúc đầu cứ giữ chánh niệm đi. Đừng có nghe người ta bày là quán chiếu quán chiếu. .. Tôi năn nỉ đừng có ham cái đó. Cứ sống chánh niệm một thời gian, tự dưng một lúc nào đó, 2 ngày, 5 ngày, 1 tháng, 2 tháng, 6 tháng, tự nhiên trong cái chánh niệm đó cộng với kiến thức Phật Pháp của mình thì tự nhiên mình ngộ ra những điều mà mình không có từng nghĩ tới, hoặc cho mình có biết mà biết ‘qua nước bọt’ của người khác, biết qua kiểu cà phê dão thôi.
Khi mình sống chánh niệm lâu ngày mình mới thấy rằng cái gọi là ‘tôi’ nó chỉ là sự lắp ráp của các thành tố danh sắc. Của hơi thở trước hơi thở sau. Của những hơi thở vào hơi thở ra. Của những tâm thiện tâm ác. Của những cảm xúc buồn cảm xúc vui. Và rõ ràng không hề có một cái gì mà nó tồn tại liên tục quá một giây đồng hồ. Danh sắc cứ tiếp nối nhau sanh diệt. Khi đó hành giả mới thấy ra những điều:
1/ Buông bỏ ý niệm ‘tôi’ và ‘của tôi’. Từ đó mới thấy rằng mình có đắc gì đi nữa cũng là chứng đắc cái vô ngã vô thường. Chớ không có gì ghê gớm để mình có thể chấp chặt vào trong đó.
2/ Tôi cũng đã nói rất nhiều lần là học giáo lý cho nhiều, mà giáo lý đó, cái biết đó nó không đủ để giảm bớt phiền não của mình, để cắt đứt phiền não của mình, không đủ để thay đổi cái nhìn tào lao của mình thì cái biết đó giống như nước biển vậy. Nghĩa là một người đi trên biển dưới chân là nước nhưng họ vẫn hoàn toàn có thể chết khát. Phật Pháp học cho nhiều, mà học kiểu gì tôi không biết, hành kiểu gì tôi không biết, miễn là cách học cách hành đó nó không đủ để mình giảm bớt phiền não, giảm bớt cái tham cái thích, giảm bớt sân giận, bất mãn, chống đối, hiềm khích, bla bla bla… thì cái biết đó giống như nước biển vậy. Đúng nó là nước. Nó có thể cho mình chút cảm giác mát mát, cho mình chút dễ chịu của người tắm biển, nhưng ta hòan toàn có thể chết khát trên cái vùng biển mình có mặt. Vì sao? – Là vì nước đó không uống được!
Nhớ nghe, thuộc lòng Tam tạng mà chưa có hành trì, hoặc hành trì không đúng mức, chưa đúng cách thì cũng giống như người đi trên biển mà chịu chết khát vậy!
3/ Cho nên ở đây Ngài mới nói có hành trì bao nhiêu đi nữa mà nếu không quán chiếu danh sắc, ngũ uẩn, tiếp tục hành trì trong ý niệm đam mê danh đam mê lợi, đam mê trong sở đắc, sở chứng, trong thành tựu nhỏ nhít của mình thì khổ hạnh đó chỉ làm mình khổ thân thôi, chớ cũng chẳng được lợi ích gì hết. Chú giải có nói một chuyện quan trọng là đề nghị chúng ta xem lại bài Kinh Lõi Cây – Mahasaropama sutta (Trung Bộ Kinh). Chính Chú giải đã xác nhận như vậy, đề nghị chúng ta xem lại bài Lõi Cây.
Bài Kinh Lõi Cây Đức Phật Ngài dạy: chánh Pháp Ngài dạy giống như một cội danh mộc. Có những người đến với Đạo, đi xuất gia rồi được người cúng dường, được trọng vọng, lễ bái nổi tiếng. Ngài nói những cái được đó chỉ là cành lá của cây danh mộc thôi.
Tiếp theo, đối với người thành tựu giới hạnh, không vì danh vì lợi mà vi phạm giới hạnh thì vị này đi đến một bước nữa, vượt qua khỏi cành lá nhưng còn bị vướng kẹt ở vỏ ngoài, cái vỏ sần sùi của cây.
Thứ ba là người tu tập thiền định được coi là vượt qua khỏi lớp vỏ sần sùi mà vô lớp vỏ trong. Người thành tựu Ngũ thông (Thắng trí hiệp thế) mà ở đây phải hiểu là Ngũ thông, là thành tựu các loại thần thông của phàm phu như thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng thông, sanh tử thông. Thành tựu 5 cái này được gọi là Lokiyania.
Phải có cái thứ sáu nữa là Lậu tận trí (Lậu tận thông) thì mới kể là thánh. Còn nếu mới chỉ có 5 thần thông kia mà bay nhảy tung tăng soi rọi thế giới, lắng nghe cuộc đời thì Ngài nói cái đó mới chỉ là giác cây thôi.
Tôi nhắc lại:
- cành lá giống như sự lễ bái cúng dường, tiếng tăm, uy tín.
- Giới hạnh thanh tịnh thì mới là vỏ ngoài thôi.
- Thiền định là vỏ trong.
- Thần thông là cái giác cây.
- Mà chỉ có Thánh trí đạo quả mới là cái lõi cây.
Đó là đối với con đường Bát Chánh Đạo mà còn như vậy thì nói chi người đam mê trong các pháp môn khổ hạnh, trong các pháp môn thuộc về giới cấm thủ.
Cho nên ở đây Ngài dạy rõ, Ngài kêu tu tập Chỉ Quán song tu. Thiền Chỉ hiểu rộng là 40 đề mục, nhưng trong bài Kinh này Thiền Chỉ mà Ngài đề nghị là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.
Thiền Chỉ có nhiều đề mục (40 lận), trong đó mỗi đề mục có cái hay riêng .
- Như các đề mục kasina xanh, vàng, đỏ, trắng, đất, nước, lửa, gió, hư không, ánh sáng. Những đề mục này ngoài tác dụng giúp cho tâm an định, nó còn có thể giúp hành giả khi đắc thiền hóa hiện các loại thần thông.
- Đề mục thứ hai là các đề mục hơi thở, đề mục bất tịnh, thể trược ngoài tác dụng giúp tâm an định, giúp mình thành tựu định học, nó còn có tác dụng là nền tảng rất tốt để ta nhàm chán thân sanh tử và đó là nền tảng cho pháp môn Tuệ quán sau này.
- Loại đề mục thứ ba để hàm dưỡng đức độ bản thân chính là Bốn vô lượng tâm. Hoặc đề mục Tùy niệm Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới, Thiên. Những đề mục này ngoài chuyện giúp mình an định nội tâm còn giúp mình công đức lớn lắm. Thí dụ tu đề mục đất nước lửa gió chỉ được cái an định và khả năng hóa hiện thần thông, nhưng nói về cái phước nó không bì được với niệm Phật. Mặc dù niệm Phật không dẫn tới đắc thiền, nhưng một người nhiều năm nhiều tháng niệm Phật, tôi nhắc lại chỉ đắc Cận định thôi nhưng công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Nhưng phải nói rõ pháp môn niệm Phật trong Phật giáo Nam truyền Pali Tạng thì cách niệm ở đây khác bên Tịnh Độ.
- Bên Tịnh Độ mình cứ réo Nam Mô lục tự Di Đà mà không cần hiểu nghĩa chữ A Di Đà nghĩa là gì, ngoài hiểu nôm na đó là hồng danh vị Tây phương giáo chủ tiếp dẫn đạo sư. Vị phóng quang tiếp dẫn thánh chúng, tiếp dẫn cái vong của mình lên Cửu phẩm Liên hoa. Chỉ biết mơ hồ vậy.
- Nhưng niệm Phật trong Kinh điển Pali truyền thống Phật giáo nguyên thủy thì không phải vậy. Niệm Phật ở đây là không phải niệm riêng đức Phật nào hết, mà NIỆM CHUNG TẤT CẢ CHƯ PHẬT. Không niệm riêng đức Phật nào mà niệm các đức tánh, hạnh lành, phẩm chất bất khả tư nghì của tất cả chư Phật.
Thí dụ mình niệm Thế Tôn, Thế Tôn theo tiếng Hán không giống chữ Pali. Pali, Thế Tôn là ‘Bhagava’ là người thành tựu tất cả điều tốt đẹp nhứt, an lạc nhứt.
Chữ ‘bhagava’ dịch sát là ‘có phần’. Chữ ‘phần’ đây là:
- Về hạnh lành, về phước báu cái gì chư Phật cũng top hết.
- Cái gì tốt nhứt là các ngài có đầy đủ.
- Cái gì hay nhứt đẹp nhứt chư Phật có không sót đó gọi là bhagava.
Phật là gì?
– Phật đây là tất cả chư Phật. Phật có hai nghĩa: một là ‘tỉnh giấc’ từ giấc ngủ phiền não, tỉnh giấc từ cơn mơ phàm phu sanh tử.
- Nghĩa thứ nhứt là người thức giấc.
- Nghĩa thứ hai chữ ‘buddho’ là người hiểu biết lý Tứ Đế.
Chữ ‘Sugato’: Thiện Thệ cũng có nhiều nghĩa. Thiện thệ là bậc đã đến và đi trên con đường đẹp nhất mà chư Phật ba đời mười phương đã đến và đi. Đã đến và đi theo cách đẹp nhất. Chữ ‘Thệ’ này hay có hay nhưng không có lột được hết nghĩa chữ Sugato. ‘Thệ’ đây có nghĩa là đi luôn không có về. Như Khổng Tử đứng nhìn dòng nước chảy nói: “Thệ như tư phù bất xả trú dạ” (Dòng nước cứ trôi đi biền biệt không quay về suốt cả ngày lẫn đêm – xả: dừng; trú dạ: ngày đêm). Chuyện đời cũng giống vậy thôi. Chữ sugato ở đây dịch Thiện thệ là nghĩa khác.
Thiện thệ là ‘người đi không về, không có quay lui sanh tử’. Còn ‘sugato’ đây nghĩa là ‘người đã đến và đi theo cách đẹp nhất, theo con đường đẹp nhất, theo hành trình, lộ trình hoàn hảo nhất’.
Rồi ‘Purisaradammasarathi’ : Điều Ngự Trượng Phu, nghĩa là thay vì đi xe bò dạy bò điều khiển bò, cỡi voi thì điều khiển voi, đi xe ngựa điều khiển ngựa, nhưng riêng Thế Tôn có khả năng điều khiển nhân thiên trong ba giới bốn loài trong đời này. Người ta chỉ có khả năng dạy thú nhưng Ngài có khả năng dạy cả trời, người, gọi là Purisaradammasarathi.
‘damma’ : well train = khéo, giỏi, người đã được đào tạo ngon lành.
‘sarathi’ : người đánh xe = xa phu
‘purisa’ chỉ chung cho nhân, thiên.
Bla bla bla … mười hồng danh như vậy. Niệm Phật bên Phật giáo Nam truyền là niệm như vậy đó, từng hồng danh một của chư Phật chớ không phải của một đức Phật nào hết. Nhờ niệm như vậy công đức vô lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Trong bài Kinh này Đức Thế Tôn không nói hết 40 đề mục mà Ngài chọn 4 đề mục Phạm trú (pháp Phạm thiên, luôn luôn an trú thường trực). Đó là từ- bi- hỷ- xả.
- Từ là mong cho người ta được an lạc an lành.
- Bi là mong cho người ta đừng có khổ. Tức là lòng mình có bất nhẫn, có trắc ẩn trước nỗi đau của chúng sinh.
- Hỷ là vui với nhân lành và quả lành của người khác.
- Vui với nhân lành là thấy người ta làm thiện, người ta tu hành (có giới, có thiền có trí, có kham nhẫn, có lòng vị tha bác ái …) thì mình vui theo.
- Vui với quả lành người ta là thấy người ta được giàu, được đẹp, tiếng tăm mình vui với người ta mà không ganh tị. Đó là Hỷ Phạm trú, hỷ trong 4 vô lượng tâm.
- Xả là cảm giác hay tâm trạng thanh thản khi nghĩ về nghiệp riêng của muôn loài, chớ không phải là sự vô cảm, lạnh lùng sắt máu của người tàn nhẫn gỗ đá. Xả đây là sự thanh thản của cái người nghĩ về cái nghiệp riêng của muôn loài.
Thí dụ thấy ai khổ ai cần mình giúp. Nhưng giúp đến mức độ nào đó mà mình có ghét họ cách mấy họ cũng có một núi nghiệp chờ sau lưng họ. Mình có thương có giúp họ cách mấy họ cũng có một núi nghiệp chờ sau lưng họ. Có nghĩa sự giúp đỡ, sự can thiệp của mình chỉ ở mức độ nào đó thôi, chớ mỗi người có một nghiệp riêng. Và cái này phải trau giồi thường xuyên tu tập liên tục như vậy, ngày ngày chưa đủ mà phải giờ giờ phút phút. Cứ nhớ như vậy.
Khổ một nỗi là KHI KHÔNG HÀNH TRÌ THÌ TẤT CẢ LỜI PHẬT ĐỀU KHÓ HIỂU KHÓ TIN. Khi có hành trì mình mới thấy ra chuyện đó, có nghĩa là:
- Thường xuyên sống chánh niệm thì cái nhìn của mình với 6 trần nó khác đi.
- Thường xuyên tu tập Bốn Phạm trú này thì cái lòng mình đối với cuộc đời cũng khác.
Ở đây tôi cũng mở ngoặc nói thêm một chút kinh nghiệm của các thiền sư mà các vị bày tôi thấy cũng có lý.
Các vị nói:
- Một người tu tập nhiều đời nhiều kiếp phước căn sâu dầy thì nơi đâu và lúc nào người ta cũng có thể tu tập được chánh niệm hay từ tâm hay các đề mục thiền Chỉ nói chung.
- Riêng những người thiếu phước thiếu trí, duyên lành mỏng muốn trau dồi chánh niệm thì phải có môi trường hoàn cảnh thích hợp, thầy bạn ok.
Bữa hổm mình có học nhân sanh các Giác Chi bà con còn nhớ không?
Nhân sanh các Giác Chi thì trong đó anh muốn có trí thì anh phải gần người có trí. Muốn có niệm phải gần người có niệm. Riêng bậc đại căn đại trí thì người ta không cần môi trường gì hết, nghĩa là duyên tới thì ‘bùm’ thành thánh liền. Còn mình thì phải biết thân . Mình phải có môi trường điều kiện, đặc biệt là pháp môn Tứ vô lượng tâm.
- Muốn trau dồi Tứ vô lượng tâm buổi đầu anh phải ở nơi nào CỰC KỲ THÍCH HỢP.
- Muốn tu chánh niệm thì phải ở chỗ thích hợp nhưng riêng Tứ vô lượng tâm thì phải thêm chữ ‘cực kỳ’ (thích hợp).
Tức là
- anh ở chỗ thầy tốt bạn tốt chưa đủ, mà
- trong thời buổi này anh phải tránh cả nguy cơ liên lạc với cuộc đời một cách không cần thiết.
Thí dụ như mình tu tâm từ, tu bi, hỷ, xả mà
- ở chung với người tốt, với minh sư thiện hữu
- mà cứ lén lén vô facebook, lén lén vô email, chit chat, lén lén alo.
Thì tôi xin hứa với quý vị trước vong linh của mẹ tôi, chuyện đó là bất khả - impossible mission. Cứ sân si suốt ngày thì tu cái nỗi gì! Cho nên tôi không có thần thông, mà chỉ cần tôi liếc thấy hành giả nào chạm tay cái phone, cái lap top, chạm tay cái ipad thì tôi nghĩ rằng tôi đã hiểu hành giả đó tu tới đâu.
Vì 3 lý do.
- Một, nếu đó là một hành giả miên mật tinh tấn thì thời gian đâu anh rờ vô mấy thứ này trừ khi anh còn đang theo đuổi pháp học, trừ khi anh còn đang theo đuổi ân oán tình thù của thế nhân. Thứ nhứt là anh không có thì giờ.
- Thứ hai, nếu anh là một hành giả miên mật thì ngoài chuyện không có thì giờ ra thì anh còn có tâm tư nào, có hứng thú nào để anh cần đến những thứ đó.
- Thứ ba, anh là hạng người nào mà những thứ đó nó không tác động đến tâm tư anh, anh nói dùm tôi. Anh có dám nói nó không ảnh hưởng anh hay không?
Cho nên muốn tu tập bốn Phạm trú này hành giả trước hết phải lánh xa môi trường có tiềm ẩn nguy cơ tác động tiêu cực lên công phu mình đang tu tập, đang hành trì.
Tôi dừng lại hơi lâu ở đề mục Bốn Phạm trú là tại vì bản thân tôi có một tâm nguyện. Bây giờ tôi 47 rồi, nhiều lắm là 3 năm nữa 50 tuổi là cái chết.
Nếu tôi chết sớm thì tôi mong trước ngày chết tôi và quý vị trong room này
- Tối thiểu có 7 năm tu Niệm Xứ,
- mà tu kiểu bậc thượng 100%, chớ tu mà cầm đồng hồ là không phải.
Tu phải liệng đồng hồ đi là 7 năm. Và 7 năm tu từ tâm.
Nghe tôi đi! Còn quý vị hỏi hai con số 7 này ở đâu thì cứ vô google đánh tiếng Anh: seven years Satipatthana, hoặc seven years vipassana tự nhiên sẽ thấy, nhớ nghe!
Còn muốn gọn thì
- chạy lên núi Dinh hỏi ngài Thanh,
- chạy về chùa Giác Quang quận 8 hỏi ngài Tịnh Giác,
- hoặc hỏi sư trưởng Biên Hòa hoặc
- chùa Bửu Long hỏi ngài Viên Minh,
- chùa Vĩnh Long hỏi thượng tọa Giác Giới,
- chạy ra Vũng Tàu hỏi thượng tọa Chánh Minh, nghe .
Những vị tôi gởi địa chỉ đó.
- Hỏi chớ tại sao có người nhắc đến Tứ Niệm Xứ mà nhắc đến 7 năm là sao.
- Hỏi tại sao có người nhắc đến Bốn vô lượng tâm mà nhắc đến 7 năm là sao?
Trong Kinh có nói cái đó không, đó là tối thiểu. Chính Thế Tôn cũng nhìn nhận ‘Ta nhiều kiếp và nhiều kiếp 7 năm tu từ tâm, từ đó sanh về Phạm cung, từ đó không trở lui thế giới suốt 7 đời như vậy’.
Chớ còn mình rải tâm từ cái kiểu mỗi ngày ngồi thiền rải sơ sơ thì không phải là kiểu Phạm trú trong Kinh đề nghị. Rải kiểu mình vậy không thể đắc Định. Còn kiểu tu tâm Từ như Đức Phật dạy là có thể dẫn đến đắc Định. Rải như vầy:
- Đối tượng: bao nhiêu đối tượng: nam, nữ, phàm, thánh, siêu, đọa.
- Hướng: Đối tượng nhân với 10 hướng gồm đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới = 10
- Các lời nguyện, như mong cho họ được an lạc. Mong cho họ đừng oan trái lẫn nhau. Mong cho họ đừng có sầu muộn. Mong cho họ đừng có sợ hãi. Mong cho họ hãy biết tự bảo trọng lấy mình.
Bao nhiêu lời nguyện nhân với hướng nhân với đối tượng (đối tượng x hướng x lời nguyện) – (Xin xem lại quyển A Tỳ Đàm bìa xanh có hình tháp ở trước. Hoặc Thanh Tịnh Đạo, đọc phần Định, Bốn Phạm trú).
Cách Từ Bi Quán, rải Bốn Phạm trú là như vậy đó. Thí dụ:
Xin cho tất cả người nam ở hướng đông được bốn, năm điều gì đó. Rồi xin cho tất cả người nam ở hướng tây được gì gì đó. Xin cho tất cả người nam ở hướng nam được cái gì đó, rồi tất cả người nam ở hướng bắc được gì gì đó. Xin cho tất cả người nam ở các hướng phụ… gì gì đó.
Rồi qua nữ: xin cho tất cả người nữ ở hướng nam được cái gì, ở hướng bắc được cái gì, bla, bla, bla …
Các vị tưởng tượng đi, chỉ hình dung là đã thấy muốn định rồi. Có nghĩa là quý vị chỉ cần phóng tâm một chút, phóng dật một chút thì làm sao có thể rải chính xác đối tượng đó, hướng đó rồi lời nguyện nào, tổng cộng vậy là mấy trăm. Lòng mình dán chặt vào trong đó làm sao nó phóng nổi. Và nếu đủ duyên thì nó đắc định, mà công đức thì vô lượng.
Có ba phước lớn trong đời của một vị tu tập: phước vật, phước đức và phước trí. Ba phước này bao trùm tất cả công đức dầu hữu lậu hay vô lậu.
1. Phước lớn thứ nhứt: Phước vật.
Phước vật là sự chia sẻ vật chất của mình cho người khác.
Công đức phước vật lớn nhỏ, nhiều hay ít thì tùy thuộc vào ba thứ:
- đối tượng: Hữu ân, đức độ, tập thể
- vào tâm trạng: Hữu trợ, vô trợ . Và
- sau mới tới vật thí: Hợp pháp / hợp đạo (hay không).
Nếu vật thí đó không hợp pháp hợp đạo thì công đức nó khác. Vật thí hợp pháp hợp đạo là vật đó không phải do lừa đảo mà có, không phải do mình hành hạ, làm khổ chúng sanh mà có (giết cá giết gà để làm phước thì vật thí đó không thanh tịnh). Nên vật thí cũng là một phần.
Thứ hai là nội tâm người thực hiện công đức bố thí. Anh thực hiện điều đó bằng sự tự phát hay do dự hay sự tác động, tức hữu trợ hay vô trợ. Khi anh thực hiện vậy có bằng sự can thiệp của trí tuệ hay không, tức hợp trí hay ly trí.
Thứ ba là thọ hỷ hay thọ xả. Nên tâm trạng người bố thí cũng quan trọng.
Như vậy vật thí, tâm trạng người bố thí, thứ ba là đối tượng bố thí. Đối tượng đó là có đức độ hay không, là cá nhân hay tập thể, là người có hữu ân với mình hay không (như cha mẹ).
Có thể tuy cha mẹ là người không đức độ, người không có giới tu, nhưng cha mẹ đối với con luôn có từ bi hỷ xả, dĩ nhiên phần tham ái tôi không nói, thì trên đời này không có ai dám chết cho mình trừ cha mẹ, không có ai dám nhịn ăn nhịn mặc, dám chịu phần thiệt để tốt cho mình trừ cha mẹ. Cho nên đền đáp cho cha mẹ cũng là một công đức lớn.
Cho nên đối tượng có ba: là
- người hữu ân với mình,
- bản thân người đó có đức độ, và
- đối tượng tập thể.
Đối tượng tập thể có nhiều phước hơn cá nhân. Đối tượng có đức độ nhiều phước hơn đối tượng không có đức độ. Đối tượng hữu ân với mình sẽ nhiều công đức hơn người không có gì với mình. Thí dụ cho bà hàng xóm không bằng cho má mình. Nhưng nói hơn đây cho biết vậy thôi, chớ không phải suốt đời mình đi kiếm chỉ ba hạng này thôi mà không đếm xỉa những người khác.
Đó là phước vật. Trong Kinh nói quả báo phước vật lớn nhứt là cúng dường cho tập thể Tứ phương tăng. Bởi tứ phương tăng vừa đáp ứng cùng một lúc các điều kiện: nói tới tăng là phải có đức độ (tăng tào lao thì không kể). Thứ hai, tăng là tập thể.
Cho nên ba cái phước vật, phước đức, phước trí gồm ba con số bốn:
* Phước vật không gì hơn Tứ phương tăng. Nhưng đừng vậy mà buồn tủi nói tui nghèo tui lấy gì cúng cho tứ phương tăng. Mình nghèo mình vẫn có thể cúng theo cách nghèo của mình. Thí dụ mình mua cái ấm nhôm để vô chùa cho chư tăng mười phương họ tới có họ xài. Mua cây chổi cỏ để trong chùa cho người ta lấy đó quét dọn chùa, chư tăng tới được sạch sẽ. Tức là mua cái gì mà đám đông có thể xài như cái thảm chùi chân,…
2. Phước lớn thứ hai: Phước đức.
Phước đức đây không có gì qua được Bốn vô lượng tâm. Đó, nãy tôi nói 7 năm tu vô lượng tâm là chỗ đó.
Phước đức là phước đem lại cho mình tuổi thọ, nhan sắc, uy tín, quyền lực, sức khỏe. Mà anh muốn có phước đức thì làm nhiều thứ như phục vụ, bố thí, v.v…
Bố thí là vừa phước đức, phước trí vừa phước vật.
Mình bố thí mà chủ ý, tác ý mình hướng đến cái gì thì cái đó sẽ dẫn mình đến cái phước tương ứng.
Thí dụ tôi cúng bữa cơm, tôi mong rằng người ta ăn bữa cơm này người ta sẽ tu thiền tốt hơn. Tôi làm một bữa bánh xèo đãi hành giả, tôi mong rằng hành giả bữa nay có bữa ăn bớt thèm để tu tập ngon lành hơn thì cũng là công đức.
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)