2022-03-26, 11:51 PM
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
23. Kinh Tệ-túc
(Pàyàsi sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong23.htm
--ooOoo--
23. KINH TỆ-TÚC
--ooOoo--
Digha Nikaya
23. Kinh Tệ-túc
(Pàyàsi sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong23.htm
--ooOoo--
23. KINH TỆ-TÚC
112. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO KINH TỆ-TÚC ĐƯỢC THUYẾT-GIẢNG?
Vào một thời kia, Tôn-giả Cưu-ma-la Ca-diếp (Kumàra Kassapa) cùng với đại-chúng Tỳ-kheo đến đô-thị Tư-bà-hê (Setavyà) của nước Câu-tát-la (Kosala), ngụ trong rừng Thi-xá-bà (Simsapà). Tôn-giả là bậc A-la-hán, đệ-tử nổi tiếng của đức Phật trước kia. Bấy giờ có Bà-la-môn Tệ-Túc (Pàyàsi), lãnh-chúa của vùng nầy, nghe danh-tiếng của Tôn-giả Cưu-ma-la Ca-diếp, đến xin yết-kiến.
Kinh nầy chẳng phải do đức Phật thuyết-giảng mà là một bài tường-thuật cuộc tranh-luận giữa Bà-la-môn Tệ-Túc với Tôn-giả Cưu-ma-la Ca-diếp, về tà-kiến: ''Không có đời sau, không có các loại hoá-sanh, hành-vi thiện-ác không có quả-báo.'' Bằng các thí-dụ cụ-thể, Tôn-giả Cưu-ma-la Ca-diếp đã chứng-minh sự vô-lý của tà-kiến đó, đồng thời chỉ rõ kẻ mang tà-kiến phải gánh chịu đau khổ, bất-hạnh lâu dài, và khuyên Tệ-Túc nên mau vứt bỏ tà-kiến đi, khiến cho Tệ-Túc được tỉnh-ngộ và xin qui-y ngôi Tam-Bảo.
113. NỘI-DUNG KINH TỆ-TÚC.
A.- Ý Chánh: Cuộc tranh-luận về tà-kiến: ''chẳng có Luân-hồi, quả-báo.''
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia ra ba phần:
1. Phần I: Tệ-Túc đến yết-kiến Tôn-giả Cưu-ma-la Ca-diếp, để nói lên tà-kiến của mình:
- Tệ-Túc trình-bày tà-kiến: chẳng có đời sau, chẳng có các loài hoá-sanh; hành-vi thiện ác chẳng có quả-báo;
- Câu hỏi đầu-tiên của Tôn-giả Ca-diếp: ''Mặt trời, mặt trăng thuộc thế-giới nầy hay thế-giới khác?''
- Tệ-Túc đáp:''Mặt trời, mặt trăng thuộc thế-giới khác'', tuy chấp-nhận có thế-giới khác, nhưng vẫn giữ tà-kiến trên.
2. Phần II: Cuộc tranh-luận giữa Tệ-Túc và Ca-diếp:
- Luận-cứ của Tệ-Túc (TT): vì người chết chẳng trở lại báo tin, nên biết chẳng thể có đời sau được.
. TT: Có nhiều kẻ kia phạm giới, khi gần chết được tôi dặn nếu bị sanh vào khổ-cảnh, thì trở lại báo cho tôi biết. Chẳng ai trở lại báo cho tôi biết cả. Vậy thì chẳng có đời sau.
. Ca-diếp (CD): Thí-dụ như có tội-nhơn bị xử-tử, lại xin kẻ hành-hình cho phép mình về thăm bà-con rồi trở lại chịu chết, thì có được phép không? Ở dưới điạ-ngục, qủi-sứ đâu có cho ai ra khỏi ngục, trở về nhà.
. TT: Có nhiều kẻ giữ giới đầy-đủ, khi gần chết được tôi dặn nếu được sanh lên cõi Trời thì trở lại báo tin cho tôi biết. Chẳng ai trở lại báo tin cả.
. CD: Thí-dụ như có người té xuống hầm phân, nay được tắm rửa sạch-sẽ, có còn muốn té trở lại hầm phân chăng? Chư Thiên rất ghê tỡm mùi hôi của loài Người, nên có bao giờ muốn trở lại đấy để báo tin.
- Luận-cứ của Tệ-Túc: vì không thấy tận mắt, nên chẳng tin.
. CD: Có kẻ sanh lên cõi Trời Ba-mươi ba, ở đấy một ngày lâu bằng một trăm năm nơi cõi Người, nếu có trở lại báo tin cho ông thì ông đã chết từ lâu rồi.
. TT: Tôi chẳng thể tin được có cõi Trời Ba mươi ba và tuổi thọ ở cõi ấy dài đến như vậy, vì mắt tôi còn chưa thấy được như thế.
. CD: Có người sanh ra đã mù, lầm cho rằng chẳng có màu sắc, vì chính họ chẳng trông thấy gì. Chỉ có bực Sa-môn tu-hành tinh-tấn chứng đắc thiên-nhãn thanh-tịnh mới trông thấy được cõi Trời Ba mươi ba.
- Luận-cứ của Tệ-Túc: Nếu làm lành, giữ giới, được sanh lên cõi Trời sướng hơn, cớ sao ai cũng tham sống ở đây, chẳng ai tự-sát để sớm lên cõi Trời?
. CD: Thí dụ như có vị Bà-la-môn chết, để lại gia-tài. Con trai người vợ lớn đòi lấy hết gia-tài. Người vợ nhỏ đang mang thai, ngăn lại, bảo chờ sanh ra, nếu được con trai thì sẽ được một phần. Nhưng người con trai trưởng thúc-hối, cứ đòi lấy ngay hết gia-tài. Người vợ bé vào phòng riêng lấy dao rạch bụng, để biết con trai hay con gái. Vì hành-động ngu-xuẩn đó mà cả mẹ lẫn con trong bụng bị hại. Hành-vi tự-sát để được sanh lên Trời cũng lại giống như thế.
- Luận-cứ của Tệ-Túc: vì chẳng thấy ''linh-hồn'' ra khỏi thân-thể khi chết, nên tin chẳng có đời sau.
. TT: Một tên tử-tội bị đem đi cân rồi bị nhốt sống trong một cái chum đậy kín, và nổi lửa đốt. Sau khi mở chum ra, chẳng thấy ''linh-hồn'' người chết đi ra, chỉ thấy thi-thể nặng hơn thân-hình lúc còn sống.
. CD: Tôn-chủ ngủ trưa, nằm mộng thấy mình đi du-ngoạn đó đây. Các người hầu-cận đứng bên có thấy ''linh-hồn'' của Tôn-chủ thoát ra di du-ngoạn chăng? - Thân-thể người sống có sức nóng nên mềm-nhẹ hơn khi đã chết cứng.
. TT: Giết một tử-tội bằng cách lột da, lóc thịt, gân, cho đến xương-tủy, lật ngữa, lật sấp, kéo cong lại, nào thấy đâu ''linh-hồn'' được thoát ra ngoài.
. CD: Thí-dụ như có người thổi tù-và, tiếng nghe êm tai. Người ấy đặt tù-và xuống. Có các kẻ khác đến bên tù-và, lật sắp, lật ngữa, cũng chẳng nghe âm-thanh phát ra. Chỉ khi người thổi tù-và thổi hơi vào mới nghe được tiếng tù-và. Sự ngu-xuẩn của các kẻ kia cũng giống như những ai muốn thấy ''linh-hồn'' trong thây chết bị lật úp, lật ngữa mà đi thoát ra vậy.
Lại lấy một thí-dụ khác: một người thờ lửa, có việc phải đi xa, dặn con nên canh-chừng lửa, đừng để tắt; nếu bị tắt thì nên dùng đồ quây lửa mà nhen-nhúm lại. Thằng bé ham chơi, quên canh-chừng nên lửa tắt; nó lấy đồ quay lửa ra, chẻ làm hai, chẻ làm bốn, làm tám, cũng chẳng thấy lửa đâu. Sự ngu-xuẩn của đứa bé cũng như những người trước muốn tìm thấy cho được cái ''linh-hồn'' thoát ra khi chết.
- Luận-cứ của Tôn-giả Ca-diếp về Luân-hồi và quả-báo:
. CD: ''Nầy Tôn-chủ, tôi sẽ kể vài thí-dụ; người có trí, nhờ các thí-dụ mà hiểu ý-nghiã của lời nói.
. Ví-dụ về đoàn lữ-hành: có đoàn lữ-hành đông-đảo được hai người lãnh-đạo, nên chia ra làm hai đoàn. Một đoàn đi trước, mang theo nhiều vật-liệu, lương-thực, xuyên qua bãi sa-mạc, dọc đường gặp một quỷ Dạ-xoa giả-dạng người, khuyên nên bỏ các vật-liệu, lương-thực đi cho nhẹ, vì đến nơi kia sẽ có nhiều hơn. Người lãnh-đạo nghe theo, nhưng đến nơi chẳng thấy có gì cả, lại gặp sự bất-hạnh bị quỷ Dạ-xoa ăn thịt. Đoàn thứ hai cũng gặp quỷ giả-dạng, gạt-gẫm bảo bỏ bớt đi vật-liệu và lương-thực, nhưng người lãnh-tụ chẳng nghe theo. Khi đi đến nơi, nhìn thấy đống xương trắng-hếu, mới biết đoàn lữ-hành trước vì đã quá tin theo lời nghe nói (của Dạ-xoa) mà phải chịu cảnh bất-hạnh. Cũng vậy, Tôn-chủ chớ có nghe theo tà-kiến, chúng sẽ đưa Tôn-chủ vào đau-khổ, bất-hạnh lâu-dài.
. Ví-dụ khác: Một người nuôi heo thấy một đống phân khô, gói lại trong bịt, đội lên đầu, đem về cho heo ăn. Dọc đường bị mưa, phân ướt chảy dơ dáy khắp mình-mẫy. Các người khác thấy vậy, khuyên nên bỏ bịt phân đi, nhưng kẻ ấy chẳng chịu, cứ tiếp-tục đội bịt phân ướt về. Nầy Tôn-chủ, chớ nên cố-chấp vào tà-kiến như người đội phân kia, nó sẽ đưa Tôn-chủ vào đau-khổ và bất-hạnh lâu-dài.
. Ví-dụ khác nữa: Hai người đánh bạc; một người khi thua thì lấy con xúc-xắc ngậm vào miệng. Kẻ kia thấy vậy, xin đổi xúc-xắc, lấy mấy con cũ đem thoa thuốc độc vào. Một chặp, người ấy lấy xúc-xắc có thoa thuốc độc ra mà đổ. Đối-thủ bị thua, liền lấy xúc-xắc đó ngậm vào miệng, nên phải chịu đau-đớn vô-ngần. Nầy Tôn-chủ, hãy từ bỏ ngay các tà-kiến, nó sẽ đưa Ngài vào đau-khổ, bất-hạnh lâu dài.
. Ví-dụ chót: Hai người bạn lên đường tìm của-cải. Dọc đường, họ gặp một đống gai quăng bỏ. Họ bó lại hai bó và mang đi. Lại gặp nhiều bó dây gai; một người bỏ bó gai, lấy dây gai, còn người kia thì chẳng chịu bỏ. Qua đến các nơi khác, họ lần-lượt gặp nhiều vải bông, ... sắt, ... thiếc, ... chì, ... bạc và vàng. Người thứ hai lần-lượt bỏ các món cũ, chọn lấy vàng đem về; còn người kia vẫn cố giữ bó gai mà anh đã mang theo từ xa. Dĩ nhiên người mang bó gai về chẳng được vợ con hoan-nghinh, còn anh kia được gia-đình vui mừng đón tiếp. Nầy Tôn-chủ, hãy từ bỏ ác-kiến, chúng sẽ đưa Ngài vào đau-khổ và bất-hạnh lâu-dài.
3. Phần III: Tôn-giả Ca-diếp dạy phép lập tế-đàn.
- Tệ-Túc: Ngay tại thí-dụ đầu-tiên về mặt trời, mặt trăng, tôi đã bỏ tà-kiến và tin có đời sau, có quả-báo, nhưng vì muốn nghe trọn lời dạy của Tôn-giả Ca-diếp nên tiếp-tục hỏi thêm. Giờ đây tôi xin quy-y ngôi Tam-Bảo và xin thưa hỏi về việc tổ-chức lễ tế-đàn.
- CD: Việc tế-đàn chẳng cần có thú-vật bị giết, kẻ tham-dự phải từ bỏ tà-kiến, phải có chánh-kiến; một tế-đàn như thế sẽ đem lại quả-báo lớn, lợi-ích lớn.
- Tệ-Túc tổ-chức bố-thí cho người nghèo những thức như cháo, đồ ăn phế-thải, vải thô... nên quả-báo là được sanh lên cõi Trời thấp nhứt là cõi Tứ Đại Thiên-Vương. Có thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố-thí nầy, sau khi chê-trách lối bố-thí của Tệ-Túc, tổ-chức một lễ tế hoàn-bị, với tế-vật có phẩm-chất tốt, có lòng thành, nên được sanh lên cõi Trời cao hơn, là cõi Tam Thập tam Thiên.
114. HỌC KINH TỆ-TÚC NÊN CHÚ-Ý ĐẾN ĐIỂM NÀO?
1. Tà-kiến nói trong Kinh Tệ-Túc: ''chẳng có luân-hồi, chẳng có quả-báo''. Người cho rằng chẳng có đời sau là vướng phải tà-kiến được gọi là đoạn-kiến, nghiã là cho rằng chết là hết. Người mắc đoạn-kiến lại chủ-trương rằng, hễ còn đang sống đây, phải cố hưởng-thọ cho mau mau, cho nhiều nhiều, tất cả các khoái-lạc, cần gì phải lánh ác làm lành, kẻo khi mất chẳng còn hưởng được nữa, ''uổng đời'' lắm ! Lý-luận như thế, làm sao tránh khỏi sa vào đường ác khi chết, mà ngay lúc còn sống cũng khó lòng mà được người khác kính-nễ.
2. Mắt có thấy, tai có nghe, mới biết chắc là có; đó chỉ là kinh-nghiệm của một cá-nhơn về thực-tại bên ngoài. Nhưng nếu chẳng thấy được, chưa nghe được một sự-vật gì, đó chẳng phải là lý-do vững-chắc để quả-quyết rằng sự-kiện đó chẳng có. Đấy là điểm cần lưu-tâm đến, khi học Kinh Tệ-Túc.
Vì lẽ các cảnh-giới khác với cõi nhân-gian, chẳng thể chỉ rõ ra cho mắt thấy, cho tai nghe được, nên Tôn-giả Cưu-ma-la Ca-diếp mới dùng khá nhiều thí-dụ cụ-thể -- có phần dí-dỏm ! -- của đời sống hằng ngày mà chứng-minh với Tôn-chủ Tệ-Túc. Các thí-dụ đó chỉ có giá-trị tượng-trưng, gợi-ý, nhằm giúp người nghe tự mình suy-gẫm thêm về các sự-vật xuất-thế-gian mà thôi. Chỉ khi nào tu-chứng được thiên-nhãn-thông, bấy giờ mới ''mở mắt ra'' mà đến gần Chơn-Lý.
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Tệ Túc (1-2)
Kinh Tệ Túc
15/02/2022 - 10:24 - buithibuukim
KINH TRƯỜNG BỘ - BÀI 23 KINH TỆ TÚC
Hôm nay chúng ta học bài Kinh Trường Bộ số 23, Kinh Tệ Túc.
Kinh này được thuyết giảng bởi ngài Đồng Tử Ca Diếp lúc đó Đức Thế Tôn đã Niết bàn.
Có một số chuyện chúng ta cần biết thêm về nhân danh và địa danh trong đây.
Thời Đức Phật có 5 vị Ca Diếp: Uruvelakassapa – Gayakassapa – Sisakassapa – Mahakassapa – Kumarakassapa.
Ba vị đầu tiên là ba anh em xuất gia theo đạo thờ lửa. Lúc Đức Phật mới vừa thành Đạo xong thì ba anh em đã theo Ngài xuất gia, họ có trong tay 1.000 đệ tử. Cho nên kỳ đại hội Thánh tăng đầu tiên trong rằm tháng giêng đầu tiên tại ngôi chùa Phật giáo đầu tiên (chùa Trúc Lâm ở Vương Xá do vua Tần Bà Sa La cúng dường), lần đó ta thấy có 1.250 vị tỳ kheo đều đắc lục thông hết, túc số lớn như vậy là nhờ do nhóm này của ba anh em Uruvelakassapa, Gayakassapa và Sisakassapa.
Còn ngài Mahakassapa là đệ nhất đầu đà. Ngài xuất thân gia thế, ngài đẹp như tượng vàng. Bởi ngài từ Phạm thiên sanh xuống nên ngài không thích đàn bà. Không thích đàn bà đây do ngài ly dục chớ không phải là gay như người thời nay. Gia đình ép ngài lấy vợ nên ngài cho làm một tượng vàng, nói nếu có người nào đẹp như vậy thì ngài lấy. Mà không ngờ là gia đình ngài tìm được một người giống như vậy nên ngài phải lấy. Cưới nhau được mấy bữa cả hai chán đời rủ nhau đi tu. Rồi sau đó (chuyện dài lắm) cả hai đều đắc A la hán hết.
Vị cuối cùng là ngài Kumara Kassapa. Vị này có duyên đặc biệt là, cuối thời giáo pháp của Đức Phật Ca Diếp (Phật trước Phật mình) có 5 vị tỳ kheo thấy Pháp Phật suy đồi, pháp học pháp hành không còn ai tha thiết nên 5 vị dắt nhau lên một mỏm núi rất cheo leo. Muốn lên đây phải bắc cái thang rất nguy hiểm. Lên xong xô bỏ thang là coi như không còn đường trở vào. Lên xong 5 vị đạp bỏ thang, nguyện với nhau sống chết gì cũng ở tu không trở lại. Ở đó được mấy ngày thì đến ngày thứ ba có một vị đắc A la hán, có thần thông vị này bay đi khất thực, đem đồ ăn về cho anh em. Mấy vị kia nói nếu đã có lòng quyết tu đi tìm cái chết rồi thì không thể ăn được nên họ từ chối không ăn. Vị này từ giã bay về trú xứ của mình. Đến ngày thứ tư thêm một vị nữa đắc A na hàm, cũng có thần thông và bay đi bát đem về, nhưng 3 người còn lại không ăn. Do vậy vị đắc A na hàm này cũng từ giã về trú xứ của mình. Ba người còn lại vừa nóng, đói, khát và chết, tất cả đều sanh thiên. Trong ba người đó, đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời thì một vị là vua Pukkusa, là người bỏ ngôi vua mà đi tìm Phật. Trên đường thì tự đắp y, rồi tình cờ gặp Phật trong nhà kho chứa cỏ khô. Ổng gặp mà không biết đó là Phật, chỉ biết Ngài đẹp vậy thôi. Ổng ngủ chung trong nhà kho đó suốt đêm tới gần sáng thì Ngài thuyết Pháp ổng nghe, ổng đắc Tư đà hàm. Sau đó ổng đi ra ngoài bị con Dạ Xoa giết chết (nói gọn vậy đi, chuyện dài lắm).
Như vậy trong 5 vị quyết tử tu hành ngày xưa thì có hai vị đắc, một là A la hán, một A na hàm. Bây giờ còn lại 3, thì một vị là vua Pukkusa, một vị nữa là ngài Bahiya.
Bahiya là người lái buôn bị chìm tàu, tấp vô hoang đảo, không còn áo quần mới lấy vỏ cây làm áo mặc nên người ta kêu là ‘Người mặc áo vỏ cây’. Người ta đồn nhau ông này chắc là thánh nhân, thấy ăn mặc lạ quá. Hồi đầu ổng không nghĩ vậy nhưng thấy người ta bái lạy quỳ quỳ cung kính, nuôi dưỡng thức ăn tận miệng riết ổng cũng sanh tâm bậy, tự tưởng ổng là thánh thiệt. Có một vị trời là bạn cũ biết chuyện, thương ổng sợ ổng bị sa đọa nên nhắc ổng nói ông không phải thánh đâu. Muốn thấy thánh thứ thiệt thì ông nên đi gặp Đức Phật. Ổng nghe nên đi tìm Phật. Lúc ổng gặp được Phật thì lúc đó Phật đang đi bát. Ổng xin nghe Pháp thì Đức Phật từ chối. Ngài từ chối vì muốn đợi cho cái tâm ổng chín muồi. Rồi Ngài nói: “Trong thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe…”. Các vị còn nhớ vụ đó không? Khi Ngài nói vậy thì ổng vô gốc cây ngồi ổng đắc A la hán, rồi cũng bị Dạ Xoa giết.
Tại sao có vụ Dạ Xoa?
– Bởi vì ngày xưa có nhóm 5 công tử nhân ngày lễ hội rủ nhau mướn một cô ca kỹ giúp vui. Họ đến một khu vườn đẹp vắng, cô này mang rất nhiều nữ trang vòng vàng trên người. Mấy công tử này con nhà giàu, nhưng nhìn thấy cô này động lòng tham hè nhau giết cô này cướp của. Trước khi chết cô này hận quá có lời nguyền: ‘Nếu quả thật có kiếp sau thì cái đám quỷ này đi đâu ta đuổi theo tận nơi giết tiệt trả mối thù hôm nay’. Chính lời nguyền đó cộng với nghiệp giết người nên 5 công tử này sanh ra đời nếu không bị cô kia báo oán thì cũng bị người khác giết. Suốt nhiều kiếp như vậy, thì đến kiếp cuối gặp Phật thích Ca Mâu Ni thì mấy cậu công tử ‘trời ơi’ hồi xưa đó giờ một người sanh lại làm Bahiya – Là ông gặp Phật dọc đường rồi Ngài dạy cho câu kệ, ổng đắc A la hán xong ra đường bị con bò húc chết. Con bò đó là do Dạ Xoa nó khiến. Còn người thứ hai là Pukkusa – người gặp Phật trong nhà cỏ, cũng đắc A na hàm xong bị con bò húc. Một con bò khác nhưng cũng chính con Dạ Xoa nó khiến.
Như vậy nhóm bạn tu ngày xưa là 5 người. Bà con nhớ kỹ coi chừng lộn. 5 công tử con nhà giàu là khác. 5 vị tỳ kheo lên mỏm đá tu là câu chuyện khác. Tuy là 2 câu chuyện khác nhưng trong đó có những nhân vật trùng lặp. Như 2 nhân vật Bahiya và Pukkusa là có mặt trong đám công tử ‘trời ơi’ ngày xưa nhưng lại có mặt trong nhóm 5 vị tỳ kheo khả kính lên tu ở mỏm đá cheo leo. Còn mấy người kia không có mặt.
Như vậy 3 người còn lại trong nhóm 5 vị tu quyết tử là: một là ngài Pukkusa, hai là ngài Bahiya. Người thứ ba là Kumara – chính là nhân vật mình đang học trong bài Kinh này.
Vị này sau khi tu quyết tử chết sanh về trời, luân hồi nhiều kiếp. Đến đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có một người con gái đi lấy chồng một ngày kia đi nghe Pháp rồi phát tín tâm đi xuất gia, không muốn ở ngoài đời nữa. Có một điều nàng không ngờ là trong những ngày cuối trước khi đi tu, nàng gần gũi chồng thì có mang mà nàng không biết. Nên nàng đi xuất gia mấy tháng thì cái bụng nàng lớn từ từ, cuối cùng nàng sinh con. Các vị tưởng tượng một tỳ kheo ni chỉ cần sờ, chạm một người đàn ông là đã bị lột y rồi. Bên tăng thì nhẹ hơn chút. Một vị tăng mà xúc chạm da thịt với phụ nữ thì chỉ bị phạt nặng thôi. Phải nhờ 21 vị tỳ kheo khác phục hồi giới phẩm cho mình, nhưng có nghĩa cũng còn cứu được. Nhưng bên ni thì khác, một tỳ khưu ni chỉ cần chạm vào da thịt người đàn ông khác mà bằng sự thích thú là bị lột y liền, vĩnh viễn suốt đời không được làm ni nữa. Cho nên bà tỳ kheo ni này tu mấy tháng mà có mang rồi sinh con thì quí vị tưởng tượng phản ứng của hội chúng khủng khiếp cỡ nào. Nhưng xui cho bả là lúc đó tuy Đức Phật còn tại thế mà tỳ kheo ni tự động phân thành hai nhóm. Nhóm thứ nhứt đi theo Đức Phật, nhóm thứ hai đi theo Đề Bà Đạt Đa là do Đề Bà Đạt Đa chiêu dụ họ. Bà này nằm trong nhóm theo Đề Bà Đạt Đa nên khi cổ có mang ổng bị ê mặt. Ổng quyết định trục xuất, lột y không cho nàng ở trong ni chúng nữa. Nàng biết mình không phạm giới nên khi nghe mấy người bạn tu khác khuyên nên đến gặp Thế Tôn, nàng đến gặp Ngài. Ngài giao cho ngài U Pa Li là đệ nhất luật sư giải quyết vụ này. Ngài Upali mời những nữ cư sĩ có tiếng giải quyết. Họ hỏi bả cặn kẽ xong lên trình với ngài Upali và Đức Phật. Đức Phật nói nếu như vậy thì tỳ kheo ni này không phạm tội, do bả có mang trước khi đắp y. Nhà vua nghe chuyện nói nếu tỳ kheo ni này tiếp tục muốn tu nữa thì đứa bé đó vua sẽ đem về nuôi. Rồi vua đem về nuôi và đặt tên đứa bé là Kassapa (là một trong những cái tên phổ biến thời đó).
Có nhiều truyền thuyết cho rằng chữ ‘Kassapa’ này có cùng nguồn gốc với chữ ‘kacchapa’ (nghĩa là con rùa). Người Ấn Độ nguyên thủy xưa có những bộ tộc thờ rùa. Có bộ tộc thờ lửa, thờ rắn v.v…Người ta lấy đặc điểm sinh hoạt đó của bộ tộc để đặt tên cho dòng dõi. Nên tên Kassapa xuất phát từ tên một bộ tộc thờ rùa, hoặc sống gần một chỗ nhiều rùa.
Đứa bé được vua nuôi một thời gian thì lớn lên vua hỏi nó muốn đi tu không, nó nói muốn. Vậy là vua giao nó trong chùa cho đi tu (lúc đó Kumara mới 7 tuổi). Đức Phật nhìn thấy Kumara Ngài biết đây là bậc đại nhân, đã tu hành 100.000 đại kiếp. Thời gian tu ba la mật của ngài tương đương với ngài A Nan, tương đương với ngài Maha Ca Diếp, ngài Upali, ngài Câu Hy La. Kumara là con mồ côi nên thỉnh thoảng Đức Phật được cúng dường cái gì Ngài nói với các tỳ kheo là đem cho Kassapa đi. Chư tăng mới hỏi: “Bạch Thế Tôn,Kassapa nào?” bởi vì nhiều Kassapa quá, thì Đức Phật ngài nói Kumarakassapa. Chữ ‘kumara’ đây là ‘child, kid = trẻ con. Từ câu gọi của Đức Phật, từ đó ngài có ngoại hiệu là Kumarakassapa. Về sau khi 20 tuổi thành thanh niên, thọ đại giới tỳ kheo rồi đắc A La Hán đi nữa thì cũng vẫn được gọi là Kumarakassapa.
Vào một đêm khuya, lúc đó ngài đã thọ đại giới rồi và ở trong khu rừng Andhavana (Rừng người mù). Tôi nhớ đã giải thích chuyện này rồi, quí vị còn nhớ không ta. Gọi là rừng Người mù là do thời Phật Ca Diếp có ông cư sĩ ổng đắc A na hàm đi quyên góp để về xây Bảo tháp xá lợi. Ổng quyên được nhiều vàng khi đi qua khu rừng này gặp đám cướp 500 đứa giết ổng và cướp số vàng đó. Chúng không hề biết là vừa tạo một trọng nghiệp: cướp vàng (làm tháp xá lợi) là một tội nặng, kế nữa là chúng giết một vị thánh A na hàm. Hai tội cộng lại trong vòng nháy mắt chúng vừa ra tay giết vị A na hàm này thì tích tắc cả đám 500 mạng đều bị mù lòa tại chỗ và sau khi chết bị sanh về địa ngục. Trong thời gian chưa chết thì 500 người mù này cứ rờ rờ mà sống trong rừng. Từ đó người ta gọi là khu rừng người mù. Cái tên đó kéo dài đến đời Đức Phật mình (chuyện đó cũng lạ).
Thì ngài Kumarakassapa vào khu rừng này tu thiền. Ngài gặp lại một người bạn xưa giờ là một vị Phạm thiên.Vị trời này nhớ bạn xưa mới tìm hiểu, biết bạn mình đang ở đây nên xuống giúp bằng cách đặt một số câu hỏi lạ lùng mà Kumara không hiểu. Rồi nói nếu không hiểu thì nên đến hỏi ý nghĩa ở Đức Phật. Ngài Kumara đem bài kệ đó đến hỏi Đức Phật và Đức Phật giải thích cho ngài từng điều từng điều. Sau khi nghe xong, trở về tu thì ngài đắc A La hán. Nhưng điều quan trọng ở chuyện này là vì ngài đã bắt đầu tu hành đắc chứng bằng một bài kệ mà toàn là hình ảnh ví dụ. Nên khi đắc A La Hán rồi ngài trở thành một người mà Đức Phật khen là Đệ nhất Citrakathi : ‘người nói chuyện bằng những ví dụ minh họa’.
(Citra: hình ảnh
Cathi: nói chuyện –> Citracathi: người nói chuyện bằng ví dụ minh họa).
Ngài là đệ nhất, vô địch trong chư tăng về khả năng này. Những vị khác mà giải thích về Thiền quán, về thiền chỉ, về duyên sinh, Bốn Đế, Thất Giác Chi cứ lo giải thích số 5 số 7 số 3 số 8, riêng ngài thấy mình chậm hiểu là ngài cho một núi ví dụ, nói chừng nào mình hiểu thì thôi. Bậc thầy thiên hạ về cái tài này.
Các vị tưởng tượng chuyện đó xảy ra trong khoảng 10 năm đầu tiên sau khi Phật thành Đạo. Ngài thành Đạo năm 35 tuổi, chuyện ngài Kumara xảy ra lúc Thế Tôn 45 tuổi trở lại. Như vậy vị này ít nhứt là nhỏ hơn Thế Tôn 45 tuổi. Cho nên khi Thế Tôn tịch rồi thì vị này sống rất lâu. Giống như bà Visakha đắc quả lúc 7 tuổi, mà Kinh nói bà sống tới 120 tuổi. Giống mấy đại đệ tử cao đồ của Đức Phật tuổi thọ rất dài. Như ngài Pakula sống tới 160. Ngài Anurudha đệ nhất thiên nhãn sống 150. Ngài A Nan, ngài Ca Diếp, bà dì mẫu Gotami, bà Visakha đều 120. Riêng ngài Cấp Cô Độc thì yểu đi sớm. Mà yểu nhứt trong đó là ngài Rahula, có bốn mấy năm chục là ngài tịch rồi.
Chúng tôi dạo một vòng để các vị biết ngài Kumara là ai. Bây giờ chúng ta trở lại nội dung bài Kinh.
Lúc bấy giờ có ông vua Tệ Túc, ổng không tin chuyện kiếp trước kiếp sau. Ổng chỉ tin cái gì ổng thấy được, sờ chạm, ngửi được chứng minh được. Còn cái gì quá tầm nhận thức suy diễn của ổng thì ổng bèn cho đó là không có! Nhưng dù sao ổng cũng có chút lòng kính mộ, thương quý ngài nên ổng tới hỏi đạo. Ổng nói thiệt với ngài là không tin trời đất gì hết, không tin kiếp trước kiếp sau, không tin cái gì không thấy sờ chạm được, cái gì không chứng minh được là cái đó không có thiệt. Cho nên ngài Kumara dùng nhiều ví dụ để giải thích cho ổng nghe.
Coi trong Chánh Kinh các vị thấy không? “Lúc bấy giờ vua Payasi khởi lên tà kiến như sau: là không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác, không có quả báo”.
Ổng nghĩ vậy, mà đây cũng là cách nghĩ của rất nhiều người bây giờ kể cả người VN mình. Họ cho chết rồi là hết, còn mấy cái loại khuất mày khuất mặt là do người ta bịa ra thôi. Rồi còn thiện ác là do mình nghĩ thôi chớ làm gì có chuyện báo ứng? Cũng như chuyện phủ nhận các loài hóa sanh là theo tôi thấy nhiều lắm. Nhiều người tìm đủ cách để phủ nhận. Họ nói đâu có bằng chứng nào chứng minh ma quỷ, chư thiên có thiệt. Trong room này tôi không biết ai đang nghe. Tôi chỉ xin gởi chung cho những ai nghi ngờ hoặc không tin một câu nói thôi:
Nếu quý vị muốn tin cái gì thì quý vị nên dựa vào những bằng chứng, chớ đừng cuồng tín. Nhưng nếu quý vị muốn bác bỏ cái gì đó thì quý vị cũng làm ơn dựa vào những bằng chứng. Nhe!
Chớ theo tôi biết những người tuổi trẻ hôm nay đụng đâu bác đó để chứng tỏ mình là người có đầu óc khoa học, là trí thức thời đại, thời thượng, chỉ tin cái gì có chứng minh, có lý do hợp lý…Mình quên một chuyện là tin cái gì phải có bằng chứng, mà muốn bác cái gì cũng phải có bằng chứng. Mình không thấy con vi trùng không có nghĩa là con vi trùng đó không có. Mình không nghe được những tần số âm thanh nhỏ (hạ âm), đề xi ben nó quá thấp chỉ có con chó con cá heo nó nghe được, thì không lẽ những cái đó không có? Có chứ! Con chó phân biệt được mấy trăm mùi, mình thì không vậy. Cái vali có một tép heroin trong đó là con chó nó ngửi biết chớ còn mình đâu có ngửi được gì đâu. Những lần có động đất sóng thần mấy con thú nhốn nháo, xôn xao là nó di tản hết. Còn con người mình tới phút cuối mình mới hay đã động đất, đang động đất. Còn mấy con kia biết trước hết rồi. Có nghĩa khả năng cảm nhận sự việc của mỗi loài mỗi khác. Chư thiên và những người khuất mày khuất mặt có khả năng khác. Chúng ta là loài người, thân thể nặng nề, có máu có thịt có xương có da còn rất nhiều rào cản sinh học. Nó không cho phép mình sự bén nhạy của một số loài chúng sinh. Chính vì vậy mình cứ tưởng cái gì mình không biết là cái đó không có, thì suy nghĩ đó hơi khờ!
Ông vua này theo kiểu đó, nói cái gì ta không thấy không biết là nó không có. Ổng nghe đồn ngài Kumarakassapa biết nhiều, có thể giải tỏa những hoang mang nghi hoặc về kiến giải của thiên hạ, nên ổng tìm tới thăm. (Chuyện dài lắm bà con tự coi thêm. Tôi chỉ giảng cái gì trong đây không có).
Nghe ổng nói vậy thì ngài Kumara nói là không được, không nên như vậy. Cái gì có mình phải thấy là có. Cái gì không mình phải thấy là không. Đại vương phải biết mình chết rồi đâu phải là hết, còn có đời sau kiếp khác. Những loài khuất mày khuất mặt cũng là những chúng sanh nhưng trong hình dạng khác, trong hình thức tồn tại đặc biệt khác nhân loại, nhưng điều đó không có nghĩa là không có. Ông vua nghe ổng không tin, ngài mới lần lượt cho các ví dụ.
Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
15/02/2022 - 10:24 - buithibuukim
KINH TRƯỜNG BỘ - BÀI 23 KINH TỆ TÚC
Hôm nay chúng ta học bài Kinh Trường Bộ số 23, Kinh Tệ Túc.
Kinh này được thuyết giảng bởi ngài Đồng Tử Ca Diếp lúc đó Đức Thế Tôn đã Niết bàn.
Có một số chuyện chúng ta cần biết thêm về nhân danh và địa danh trong đây.
Thời Đức Phật có 5 vị Ca Diếp: Uruvelakassapa – Gayakassapa – Sisakassapa – Mahakassapa – Kumarakassapa.
Ba vị đầu tiên là ba anh em xuất gia theo đạo thờ lửa. Lúc Đức Phật mới vừa thành Đạo xong thì ba anh em đã theo Ngài xuất gia, họ có trong tay 1.000 đệ tử. Cho nên kỳ đại hội Thánh tăng đầu tiên trong rằm tháng giêng đầu tiên tại ngôi chùa Phật giáo đầu tiên (chùa Trúc Lâm ở Vương Xá do vua Tần Bà Sa La cúng dường), lần đó ta thấy có 1.250 vị tỳ kheo đều đắc lục thông hết, túc số lớn như vậy là nhờ do nhóm này của ba anh em Uruvelakassapa, Gayakassapa và Sisakassapa.
Còn ngài Mahakassapa là đệ nhất đầu đà. Ngài xuất thân gia thế, ngài đẹp như tượng vàng. Bởi ngài từ Phạm thiên sanh xuống nên ngài không thích đàn bà. Không thích đàn bà đây do ngài ly dục chớ không phải là gay như người thời nay. Gia đình ép ngài lấy vợ nên ngài cho làm một tượng vàng, nói nếu có người nào đẹp như vậy thì ngài lấy. Mà không ngờ là gia đình ngài tìm được một người giống như vậy nên ngài phải lấy. Cưới nhau được mấy bữa cả hai chán đời rủ nhau đi tu. Rồi sau đó (chuyện dài lắm) cả hai đều đắc A la hán hết.
Vị cuối cùng là ngài Kumara Kassapa. Vị này có duyên đặc biệt là, cuối thời giáo pháp của Đức Phật Ca Diếp (Phật trước Phật mình) có 5 vị tỳ kheo thấy Pháp Phật suy đồi, pháp học pháp hành không còn ai tha thiết nên 5 vị dắt nhau lên một mỏm núi rất cheo leo. Muốn lên đây phải bắc cái thang rất nguy hiểm. Lên xong xô bỏ thang là coi như không còn đường trở vào. Lên xong 5 vị đạp bỏ thang, nguyện với nhau sống chết gì cũng ở tu không trở lại. Ở đó được mấy ngày thì đến ngày thứ ba có một vị đắc A la hán, có thần thông vị này bay đi khất thực, đem đồ ăn về cho anh em. Mấy vị kia nói nếu đã có lòng quyết tu đi tìm cái chết rồi thì không thể ăn được nên họ từ chối không ăn. Vị này từ giã bay về trú xứ của mình. Đến ngày thứ tư thêm một vị nữa đắc A na hàm, cũng có thần thông và bay đi bát đem về, nhưng 3 người còn lại không ăn. Do vậy vị đắc A na hàm này cũng từ giã về trú xứ của mình. Ba người còn lại vừa nóng, đói, khát và chết, tất cả đều sanh thiên. Trong ba người đó, đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời thì một vị là vua Pukkusa, là người bỏ ngôi vua mà đi tìm Phật. Trên đường thì tự đắp y, rồi tình cờ gặp Phật trong nhà kho chứa cỏ khô. Ổng gặp mà không biết đó là Phật, chỉ biết Ngài đẹp vậy thôi. Ổng ngủ chung trong nhà kho đó suốt đêm tới gần sáng thì Ngài thuyết Pháp ổng nghe, ổng đắc Tư đà hàm. Sau đó ổng đi ra ngoài bị con Dạ Xoa giết chết (nói gọn vậy đi, chuyện dài lắm).
Như vậy trong 5 vị quyết tử tu hành ngày xưa thì có hai vị đắc, một là A la hán, một A na hàm. Bây giờ còn lại 3, thì một vị là vua Pukkusa, một vị nữa là ngài Bahiya.
Bahiya là người lái buôn bị chìm tàu, tấp vô hoang đảo, không còn áo quần mới lấy vỏ cây làm áo mặc nên người ta kêu là ‘Người mặc áo vỏ cây’. Người ta đồn nhau ông này chắc là thánh nhân, thấy ăn mặc lạ quá. Hồi đầu ổng không nghĩ vậy nhưng thấy người ta bái lạy quỳ quỳ cung kính, nuôi dưỡng thức ăn tận miệng riết ổng cũng sanh tâm bậy, tự tưởng ổng là thánh thiệt. Có một vị trời là bạn cũ biết chuyện, thương ổng sợ ổng bị sa đọa nên nhắc ổng nói ông không phải thánh đâu. Muốn thấy thánh thứ thiệt thì ông nên đi gặp Đức Phật. Ổng nghe nên đi tìm Phật. Lúc ổng gặp được Phật thì lúc đó Phật đang đi bát. Ổng xin nghe Pháp thì Đức Phật từ chối. Ngài từ chối vì muốn đợi cho cái tâm ổng chín muồi. Rồi Ngài nói: “Trong thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe…”. Các vị còn nhớ vụ đó không? Khi Ngài nói vậy thì ổng vô gốc cây ngồi ổng đắc A la hán, rồi cũng bị Dạ Xoa giết.
Tại sao có vụ Dạ Xoa?
– Bởi vì ngày xưa có nhóm 5 công tử nhân ngày lễ hội rủ nhau mướn một cô ca kỹ giúp vui. Họ đến một khu vườn đẹp vắng, cô này mang rất nhiều nữ trang vòng vàng trên người. Mấy công tử này con nhà giàu, nhưng nhìn thấy cô này động lòng tham hè nhau giết cô này cướp của. Trước khi chết cô này hận quá có lời nguyền: ‘Nếu quả thật có kiếp sau thì cái đám quỷ này đi đâu ta đuổi theo tận nơi giết tiệt trả mối thù hôm nay’. Chính lời nguyền đó cộng với nghiệp giết người nên 5 công tử này sanh ra đời nếu không bị cô kia báo oán thì cũng bị người khác giết. Suốt nhiều kiếp như vậy, thì đến kiếp cuối gặp Phật thích Ca Mâu Ni thì mấy cậu công tử ‘trời ơi’ hồi xưa đó giờ một người sanh lại làm Bahiya – Là ông gặp Phật dọc đường rồi Ngài dạy cho câu kệ, ổng đắc A la hán xong ra đường bị con bò húc chết. Con bò đó là do Dạ Xoa nó khiến. Còn người thứ hai là Pukkusa – người gặp Phật trong nhà cỏ, cũng đắc A na hàm xong bị con bò húc. Một con bò khác nhưng cũng chính con Dạ Xoa nó khiến.
Như vậy nhóm bạn tu ngày xưa là 5 người. Bà con nhớ kỹ coi chừng lộn. 5 công tử con nhà giàu là khác. 5 vị tỳ kheo lên mỏm đá tu là câu chuyện khác. Tuy là 2 câu chuyện khác nhưng trong đó có những nhân vật trùng lặp. Như 2 nhân vật Bahiya và Pukkusa là có mặt trong đám công tử ‘trời ơi’ ngày xưa nhưng lại có mặt trong nhóm 5 vị tỳ kheo khả kính lên tu ở mỏm đá cheo leo. Còn mấy người kia không có mặt.
Như vậy 3 người còn lại trong nhóm 5 vị tu quyết tử là: một là ngài Pukkusa, hai là ngài Bahiya. Người thứ ba là Kumara – chính là nhân vật mình đang học trong bài Kinh này.
Vị này sau khi tu quyết tử chết sanh về trời, luân hồi nhiều kiếp. Đến đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có một người con gái đi lấy chồng một ngày kia đi nghe Pháp rồi phát tín tâm đi xuất gia, không muốn ở ngoài đời nữa. Có một điều nàng không ngờ là trong những ngày cuối trước khi đi tu, nàng gần gũi chồng thì có mang mà nàng không biết. Nên nàng đi xuất gia mấy tháng thì cái bụng nàng lớn từ từ, cuối cùng nàng sinh con. Các vị tưởng tượng một tỳ kheo ni chỉ cần sờ, chạm một người đàn ông là đã bị lột y rồi. Bên tăng thì nhẹ hơn chút. Một vị tăng mà xúc chạm da thịt với phụ nữ thì chỉ bị phạt nặng thôi. Phải nhờ 21 vị tỳ kheo khác phục hồi giới phẩm cho mình, nhưng có nghĩa cũng còn cứu được. Nhưng bên ni thì khác, một tỳ khưu ni chỉ cần chạm vào da thịt người đàn ông khác mà bằng sự thích thú là bị lột y liền, vĩnh viễn suốt đời không được làm ni nữa. Cho nên bà tỳ kheo ni này tu mấy tháng mà có mang rồi sinh con thì quí vị tưởng tượng phản ứng của hội chúng khủng khiếp cỡ nào. Nhưng xui cho bả là lúc đó tuy Đức Phật còn tại thế mà tỳ kheo ni tự động phân thành hai nhóm. Nhóm thứ nhứt đi theo Đức Phật, nhóm thứ hai đi theo Đề Bà Đạt Đa là do Đề Bà Đạt Đa chiêu dụ họ. Bà này nằm trong nhóm theo Đề Bà Đạt Đa nên khi cổ có mang ổng bị ê mặt. Ổng quyết định trục xuất, lột y không cho nàng ở trong ni chúng nữa. Nàng biết mình không phạm giới nên khi nghe mấy người bạn tu khác khuyên nên đến gặp Thế Tôn, nàng đến gặp Ngài. Ngài giao cho ngài U Pa Li là đệ nhất luật sư giải quyết vụ này. Ngài Upali mời những nữ cư sĩ có tiếng giải quyết. Họ hỏi bả cặn kẽ xong lên trình với ngài Upali và Đức Phật. Đức Phật nói nếu như vậy thì tỳ kheo ni này không phạm tội, do bả có mang trước khi đắp y. Nhà vua nghe chuyện nói nếu tỳ kheo ni này tiếp tục muốn tu nữa thì đứa bé đó vua sẽ đem về nuôi. Rồi vua đem về nuôi và đặt tên đứa bé là Kassapa (là một trong những cái tên phổ biến thời đó).
Có nhiều truyền thuyết cho rằng chữ ‘Kassapa’ này có cùng nguồn gốc với chữ ‘kacchapa’ (nghĩa là con rùa). Người Ấn Độ nguyên thủy xưa có những bộ tộc thờ rùa. Có bộ tộc thờ lửa, thờ rắn v.v…Người ta lấy đặc điểm sinh hoạt đó của bộ tộc để đặt tên cho dòng dõi. Nên tên Kassapa xuất phát từ tên một bộ tộc thờ rùa, hoặc sống gần một chỗ nhiều rùa.
Đứa bé được vua nuôi một thời gian thì lớn lên vua hỏi nó muốn đi tu không, nó nói muốn. Vậy là vua giao nó trong chùa cho đi tu (lúc đó Kumara mới 7 tuổi). Đức Phật nhìn thấy Kumara Ngài biết đây là bậc đại nhân, đã tu hành 100.000 đại kiếp. Thời gian tu ba la mật của ngài tương đương với ngài A Nan, tương đương với ngài Maha Ca Diếp, ngài Upali, ngài Câu Hy La. Kumara là con mồ côi nên thỉnh thoảng Đức Phật được cúng dường cái gì Ngài nói với các tỳ kheo là đem cho Kassapa đi. Chư tăng mới hỏi: “Bạch Thế Tôn,Kassapa nào?” bởi vì nhiều Kassapa quá, thì Đức Phật ngài nói Kumarakassapa. Chữ ‘kumara’ đây là ‘child, kid = trẻ con. Từ câu gọi của Đức Phật, từ đó ngài có ngoại hiệu là Kumarakassapa. Về sau khi 20 tuổi thành thanh niên, thọ đại giới tỳ kheo rồi đắc A La Hán đi nữa thì cũng vẫn được gọi là Kumarakassapa.
Vào một đêm khuya, lúc đó ngài đã thọ đại giới rồi và ở trong khu rừng Andhavana (Rừng người mù). Tôi nhớ đã giải thích chuyện này rồi, quí vị còn nhớ không ta. Gọi là rừng Người mù là do thời Phật Ca Diếp có ông cư sĩ ổng đắc A na hàm đi quyên góp để về xây Bảo tháp xá lợi. Ổng quyên được nhiều vàng khi đi qua khu rừng này gặp đám cướp 500 đứa giết ổng và cướp số vàng đó. Chúng không hề biết là vừa tạo một trọng nghiệp: cướp vàng (làm tháp xá lợi) là một tội nặng, kế nữa là chúng giết một vị thánh A na hàm. Hai tội cộng lại trong vòng nháy mắt chúng vừa ra tay giết vị A na hàm này thì tích tắc cả đám 500 mạng đều bị mù lòa tại chỗ và sau khi chết bị sanh về địa ngục. Trong thời gian chưa chết thì 500 người mù này cứ rờ rờ mà sống trong rừng. Từ đó người ta gọi là khu rừng người mù. Cái tên đó kéo dài đến đời Đức Phật mình (chuyện đó cũng lạ).
Thì ngài Kumarakassapa vào khu rừng này tu thiền. Ngài gặp lại một người bạn xưa giờ là một vị Phạm thiên.Vị trời này nhớ bạn xưa mới tìm hiểu, biết bạn mình đang ở đây nên xuống giúp bằng cách đặt một số câu hỏi lạ lùng mà Kumara không hiểu. Rồi nói nếu không hiểu thì nên đến hỏi ý nghĩa ở Đức Phật. Ngài Kumara đem bài kệ đó đến hỏi Đức Phật và Đức Phật giải thích cho ngài từng điều từng điều. Sau khi nghe xong, trở về tu thì ngài đắc A La hán. Nhưng điều quan trọng ở chuyện này là vì ngài đã bắt đầu tu hành đắc chứng bằng một bài kệ mà toàn là hình ảnh ví dụ. Nên khi đắc A La Hán rồi ngài trở thành một người mà Đức Phật khen là Đệ nhất Citrakathi : ‘người nói chuyện bằng những ví dụ minh họa’.
(Citra: hình ảnh
Cathi: nói chuyện –> Citracathi: người nói chuyện bằng ví dụ minh họa).
Ngài là đệ nhất, vô địch trong chư tăng về khả năng này. Những vị khác mà giải thích về Thiền quán, về thiền chỉ, về duyên sinh, Bốn Đế, Thất Giác Chi cứ lo giải thích số 5 số 7 số 3 số 8, riêng ngài thấy mình chậm hiểu là ngài cho một núi ví dụ, nói chừng nào mình hiểu thì thôi. Bậc thầy thiên hạ về cái tài này.
Các vị tưởng tượng chuyện đó xảy ra trong khoảng 10 năm đầu tiên sau khi Phật thành Đạo. Ngài thành Đạo năm 35 tuổi, chuyện ngài Kumara xảy ra lúc Thế Tôn 45 tuổi trở lại. Như vậy vị này ít nhứt là nhỏ hơn Thế Tôn 45 tuổi. Cho nên khi Thế Tôn tịch rồi thì vị này sống rất lâu. Giống như bà Visakha đắc quả lúc 7 tuổi, mà Kinh nói bà sống tới 120 tuổi. Giống mấy đại đệ tử cao đồ của Đức Phật tuổi thọ rất dài. Như ngài Pakula sống tới 160. Ngài Anurudha đệ nhất thiên nhãn sống 150. Ngài A Nan, ngài Ca Diếp, bà dì mẫu Gotami, bà Visakha đều 120. Riêng ngài Cấp Cô Độc thì yểu đi sớm. Mà yểu nhứt trong đó là ngài Rahula, có bốn mấy năm chục là ngài tịch rồi.
Chúng tôi dạo một vòng để các vị biết ngài Kumara là ai. Bây giờ chúng ta trở lại nội dung bài Kinh.
Lúc bấy giờ có ông vua Tệ Túc, ổng không tin chuyện kiếp trước kiếp sau. Ổng chỉ tin cái gì ổng thấy được, sờ chạm, ngửi được chứng minh được. Còn cái gì quá tầm nhận thức suy diễn của ổng thì ổng bèn cho đó là không có! Nhưng dù sao ổng cũng có chút lòng kính mộ, thương quý ngài nên ổng tới hỏi đạo. Ổng nói thiệt với ngài là không tin trời đất gì hết, không tin kiếp trước kiếp sau, không tin cái gì không thấy sờ chạm được, cái gì không chứng minh được là cái đó không có thiệt. Cho nên ngài Kumara dùng nhiều ví dụ để giải thích cho ổng nghe.
Coi trong Chánh Kinh các vị thấy không? “Lúc bấy giờ vua Payasi khởi lên tà kiến như sau: là không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác, không có quả báo”.
Ổng nghĩ vậy, mà đây cũng là cách nghĩ của rất nhiều người bây giờ kể cả người VN mình. Họ cho chết rồi là hết, còn mấy cái loại khuất mày khuất mặt là do người ta bịa ra thôi. Rồi còn thiện ác là do mình nghĩ thôi chớ làm gì có chuyện báo ứng? Cũng như chuyện phủ nhận các loài hóa sanh là theo tôi thấy nhiều lắm. Nhiều người tìm đủ cách để phủ nhận. Họ nói đâu có bằng chứng nào chứng minh ma quỷ, chư thiên có thiệt. Trong room này tôi không biết ai đang nghe. Tôi chỉ xin gởi chung cho những ai nghi ngờ hoặc không tin một câu nói thôi:
Nếu quý vị muốn tin cái gì thì quý vị nên dựa vào những bằng chứng, chớ đừng cuồng tín. Nhưng nếu quý vị muốn bác bỏ cái gì đó thì quý vị cũng làm ơn dựa vào những bằng chứng. Nhe!
Chớ theo tôi biết những người tuổi trẻ hôm nay đụng đâu bác đó để chứng tỏ mình là người có đầu óc khoa học, là trí thức thời đại, thời thượng, chỉ tin cái gì có chứng minh, có lý do hợp lý…Mình quên một chuyện là tin cái gì phải có bằng chứng, mà muốn bác cái gì cũng phải có bằng chứng. Mình không thấy con vi trùng không có nghĩa là con vi trùng đó không có. Mình không nghe được những tần số âm thanh nhỏ (hạ âm), đề xi ben nó quá thấp chỉ có con chó con cá heo nó nghe được, thì không lẽ những cái đó không có? Có chứ! Con chó phân biệt được mấy trăm mùi, mình thì không vậy. Cái vali có một tép heroin trong đó là con chó nó ngửi biết chớ còn mình đâu có ngửi được gì đâu. Những lần có động đất sóng thần mấy con thú nhốn nháo, xôn xao là nó di tản hết. Còn con người mình tới phút cuối mình mới hay đã động đất, đang động đất. Còn mấy con kia biết trước hết rồi. Có nghĩa khả năng cảm nhận sự việc của mỗi loài mỗi khác. Chư thiên và những người khuất mày khuất mặt có khả năng khác. Chúng ta là loài người, thân thể nặng nề, có máu có thịt có xương có da còn rất nhiều rào cản sinh học. Nó không cho phép mình sự bén nhạy của một số loài chúng sinh. Chính vì vậy mình cứ tưởng cái gì mình không biết là cái đó không có, thì suy nghĩ đó hơi khờ!
Ông vua này theo kiểu đó, nói cái gì ta không thấy không biết là nó không có. Ổng nghe đồn ngài Kumarakassapa biết nhiều, có thể giải tỏa những hoang mang nghi hoặc về kiến giải của thiên hạ, nên ổng tìm tới thăm. (Chuyện dài lắm bà con tự coi thêm. Tôi chỉ giảng cái gì trong đây không có).
Nghe ổng nói vậy thì ngài Kumara nói là không được, không nên như vậy. Cái gì có mình phải thấy là có. Cái gì không mình phải thấy là không. Đại vương phải biết mình chết rồi đâu phải là hết, còn có đời sau kiếp khác. Những loài khuất mày khuất mặt cũng là những chúng sanh nhưng trong hình dạng khác, trong hình thức tồn tại đặc biệt khác nhân loại, nhưng điều đó không có nghĩa là không có. Ông vua nghe ổng không tin, ngài mới lần lượt cho các ví dụ.
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)