2022-03-26, 11:32 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Ðế-Thích Sở Vấn 2 (3-3)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=Je-2UksxRO0&abt=Kinh+%C3%90%E1%BA%BF-Th%C3%ADch+S%E1%BB%9F+V%E1%BA%A5n+2
Đời sống đối với mình nó là cái mền làm mình ngộp hay cái mền làm mình ấm là do mình thôi. Khi tròn bổn phận thì mình vui. Chớ sống tắc trách thì đâu có vui. Có duyên đi tu thì không nói rồi. Còn không, làm chồng làm cha làm con thì mình phải có trách nhiệm, nhưng phải nhớ trách nhiệm đó là cái mền làm mình ấm chứ không làm mình nghẹt thở.
Cho nên bài Kinh Thánh Cầu Ngài dạy: Có những kẻ mang thân sinh tử lại tiếp tục đầu tư sanh tử cho đời sau kiếp khác. Đó là phàm cầu (cầu: kiếm tìm). Còn Thánh cầu là trong thân sanh tử mà lại hướng đến sự giải thoát sanh tử.
Ở đây vị tỳ kheo muốn giữ giới trong sạch thì phải luôn tâm niệm rằng giữ giới không phải để ràng buộc mình mà giữ giới để trang nghiêm chính mình.
Cho nên chuyện giữ giới đầu tiên là phải ghi nhận thân hành nào nên và không nên, khẩu hành nào nên và không nên.
Tiếp theo vị tỳ kheo phải quan tâm đến lý tưởng sống hiện tại của mình (pariyesana). Trong thân sanh tử này ta đang trang nghiêm giới hạnh để làm gì, trang nghiêm giới hạnh để hướng đến các quả vị Ác ma thiên tử, Đế Thích, Phạm thiên, chuyển luân vương hay ta trang nghiêm thân khẩu để hướng đến cứu cánh giải thoát. Vị tỳ kheo xác định rõ cứu cánh của mình thì giới hạnh đó được xem là giới học Vô lậu. Còn không thì giới học Hữu lậu (còn hướng tới sanh tử).
Tiếp theo Đế Thích hỏi Thế Tôn thế nào là hộ trì các căn (thu thúc lục căn thế nào). Đức Phật cũng một lần nữa xét thấy căn tánh của Đế Thích là chỉ hợp với chuyện nên và không nên, do tính ổng lu bu. Các vị để ý từ trên xuống hết 14 câu hỏi Đức Phật cứ nhắc đi nhắc lại một tinh thần thôi cho vua Đế Thích. Hỏi thu thúc lục căn làm sao thì Ngài cũng dạy Đế Thích: Khi 6 căn biết 6 trần thì hành giả đương nhiên phải có 6 thọ (hay 3 thọ, 5 thọ). Hành giả biết rõ cảm thọ nào là nên và không nên (sevitabba asevitabba).
Ở đây vị tỳ kheo thu thúc lục căn phải lưu ý đến xúc, thọ có những cái nên & không nên. Mình từ chối không đi đến những chỗ ăn chơi cũng có nghĩa là từ chối cái xúc không nên. Mình đến chùa đến thiền viện có nghĩa mình đang tìm đến những cái xúc nên. Gặp bạn tốt là cái xúc nên, mà gặp người bất thiện thì chỉ có tinh thần đi xuống thì đó là không nên.
Nên nhớ chữ ‘xúc’ đây nghĩa rất rộng. Mở một trang web, một chương trình TV, gặp gỡ một người, đọc 1 trang báo, nghe 1 bản tin, tìm đến 1 nơi chốn, tất thảy đều là 6 xúc hết. Trong đó chỉ có hai loại nên và không nên.
Tiếp theo Đế Thích hỏi: “Bạch Thế Tôn, có phải tất cả những người xuất gia tu hành sa môn Bà la môn đều cùng một tư tưởng, cùng một giới hạnh, cùng một mong cầu, cùng một chí hướng hay không (tiếng Pali là accantanittha: mục đích, lý tưởng, cứu cánh, điểm đến ở cuối đường).
Đức Phật dạy rằng “Chỉ có Thánh nhân mới được gọi là tương đồng. Phàm phu thì cái gì cũng khó lường”.
Tầng thấp nhất Thánh nhân là Tu đà hườn thì chuyện đầu tiên là không còn thân kiến, không còn chấp rằng đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức của tôi, tôi chính là sắc thọ tưởng hành thức. Ngay trên điểm đồng này, tất cả những dị biệt còn lại đều trở thành vô nghĩa. Ngàn, tỷ vị thánh trong đó có Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả, Độc giác, Toàn giác, ví dụ vậy (trong Kinh nói có những hội chúng cả 5.000 vị Độc giác ngồi chung với nhau. Có những hội chúng mấy trăm vị Thinh Văn, ngàn vị ngồi chung với nhau) thì giữa các vị có điểm đồng tối thiểu và cực kỳ căn bản, đó là ‘Đây không phải là tôi, tôi không phải là cái này. Sắc thọ tưởng hành thức không phải là tôi, tôi không phải là sắc thọ tưởng hành thức”.
Riêng phàm phu thì khác. Phàm phu có học đạo và phàm phu không có học đạo là đã khác nhau, cái này không cần nói. Rồi giữa những phàm phu có học đạo lại có khác nhau nữa. Có vị thì hướng đến quả vị Chánh Đẳng giác, Độc Giác, Thinh Văn Giác.
Trong đám có học đạo lại chia hai phe.
Tôi cũng đã nhắc không biết bao nhiêu lần: người bị bịnh thì phải uống thuốc. Chuyện uống thuốc đó tuyệt đối không có cái gì đáng để mình tự hào tự đắc, tự mãn, tự kiêu tự đại tự tôn. Và mai này mình có hết bịnh, thì cái chuyện hết bịnh nó cũng không phải là cái gì để mình tự hào tự đắc tự kiêu. Mình học Đạo cũng vậy. Quý vị có hành thiền, có giữ giới, có bố thí có cái gì đi nữa thì cũng chỉ là ‘uống thuốc’ thôi! Mai này quý vị có trở thành A la hán để cho người khác quỳ lạy quý vị, họ có tôn kính quý yêu quý vị thì là chuyện của người ta, nhưng bản thân vị A la hán thì không hề thấy rằng mình là ghê gớm. Không thấy mình hay ho gì hết. Ngài chỉ thấy một chuyện rất đơn giản: CHUYỆN NÊN LÀM ĐÃ LÀM RỒI VÀ KIẾP NÀY LÀ THÂN CUỐI (Vô hữu hậu thân: không còn thân sau nữa). Vị đó không lấy đó làm điều để mà tự đắc tự kiêu, thấy mình hay hơn người khác, người khác không sánh bằng mình. Chuyện đó không có !
Cho nên chỉ có thánh nhân, ở tầng thánh thấp nhất là đã có điểm tương đồng rất căn bản, căn cơ. Đó là vạn hữu do duyên mà có, có rồi phải bị mất. Mọi nỗ lực tu tập chỉ là ‘uống thuốc để chữa bịnh. Bịnh hết rồi thì thôi không còn chuyện gì để nói’.
Còn phàm phu mình không biết đạo thì dựa vào tiền bạc, nhan sắc, sức khỏe. Tới lúc học được đạo rồi thì lại dựa vào giới hạnh, kiến thức, công đức mà mình hành trì được. Quái gở vậy!
Ở đây Thế Tôn xác định với thiên vương Đế Thích chỉ có thánh nhân mới đáng được gọi là tương đồng nhau về tư tưởng, tương đồng nhau về cứu cánh, về lý tưởng, về điểm đến ở cuối đường. Còn phàm phu thì chuyện đó hoàn toàn khó lường.
Kết thúc bài Kinh thì vua khoe với Thế Tôn bây giờ cảm giác của con cùng lúc rất nhiều lợi ích: con có thể làm chủ được cõi tái sanh của con. Con có đi đến cảnh giới nào đi nữa thì con cũng được những điều con muốn. Vị Đế Thích biết rõ cuối cùng sẽ đi về cõi Tịnh cư cao nhứt.
Vua Đế Thích, bà Visakha, ông Cấp Cô Độc, ba người này gọi là Vattarata: kẻ khoái sanh tử. Đế Thích bây giờ trẻ măng. Ổng sẽ làm Đế Thích 36 – 40 triệu năm nữa. Sở dĩ đến 40 là vì Đế Thích lúc nào cũng sống lâu hơn người khác mới mất. Ổng trở xuống cõi người làm Chuyển luân vương rồi đắc Nhị quả Tư đà hàm. Từ đó ổng trở về trời làm Đế Thích một lần nữa ổng đắc A na hàm. Rồi từ A na hàm này ổng đi luôn. Có nghĩa từ bây giờ ổng chỉ còn hai lần cõi Dục nữa thôi, và 5 lần cõi Sắc. Tổng cộng là 7 lần tái sinh. Có nghĩa 1 lần làm chuyển luân vương, 1 lần làm đế Thích cõi dục. Xong ổng sẽ về cõi tịnh cư thấp nhứt là cõi Vô phiền, sau đó Vô nhiệt, rồi Thiện hiện, Thiện kiến. Cuối cùng là cõ Sắc cứu cánh (Akanittha).
Như vậy không kể thời gian Đế Thích ở cõi Dục, chỉ kể thời gian Đế Thích đi về Tịnh Cư là thấy ngán rồi. Cõi đầu tiên là Vô phiền là 1.000 đại kiếp. Vô nhiệt là 2.000. Thiện hiện là 4.000 đại kiếp. Thiện kiến là 8.000. Sắc cứu cánh là 16.000 đại kiếp. Tổng cộng còn luân hồi 31.000 đại kiếp!
Có nghĩa là ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên, A Nan, Ca Diếp mọi người đã Niết bàn hết rồi mà Đế thích, bà Visakha, ông Cấp Cô Độc, ba vị Mạnh thường quân hộ Pháp đắc lực và tích cực nhứt này họ phải 31.000 đại kiếp nữa thì họ mới kết thúc cuộc chơi và tới điểm đến cuối đường. Dĩ nhiên mình phải hiểu ngầm là từ đây về sau các vị đó không còn phải biết cảnh sanh ly tử biệt, bịnh hoạn, già nua nữa, không còn đau đớn sợ hãi nữa. Nhưng nếu nói rốt ráo lấy từ cái nhìn của phàm phu thì mình phải nhìn nhận những kiếp luân hồi sắp tới họ rất sướng. Nhưng với cái nhìn của Thánh nhân thì đó là sự lập lại rất tẻ nhạt, mà cái ớn nhứt trên đời này là sống mà không có đam mê.
Tôi xin kết thúc bài Kinh này bằng câu chuyện tào lao, mà mong quý vị ghi nhận coi đó như điểm chốt lại bài Kinh này.
Một ngày kia, có anh tín đồ rất ngoan đạo bên Thiên Chúa ảnh chết. Hồn ảnh về Thiên đường gặp đức Chúa Trời ở đó. Ảnh nhìn thấy kim cương khối nào khối nấy to như đá tảng trong công viên . Rồi ở đó mỹ nữ giai nhân, bông hoa trái đầy đủ trời xanh mây trắng nắng vàng. Những dòng suối, những thiên thần, thỏ trắng, bầy nai vui vẻ lắm. Đức Chúa Trời hỏi ảnh một câu: “Con cả một đời ngoan đạo. Giờ con muốn gì thì ta sẽ ban cho con một điều ước”. Ảnh nhìn quanh ảnh nói: “Thưa đấng Chí Tôn, con ở dưới trần con mê kim cương quá, con cũng là người háo sắc, con cũng thích đi du lịch. Ở trần gian làm gì có cảnh đẹp như vầy, có người đẹp lộng lẫy như vầy. Mà kim cương ở dưới trần tụi con tính bằng carat, mà ở đây kim cương tảng tảng thế này. Con thưa với Chúa Trời con biết tánh con. Con lên đây ở một thời gian là thấy mọi thứ cũng vậy hà, mà hiện giờ trước mắt con nhớ làng quê con ở dưới quá đi. Cho nên Chúa Trời thương cho con một điều ước thì cho con xin bốn chữ ‘Không bao giờ chán’. Chúa Trời mới nói đây là một ước mơ thông minh nhứt từ xưa đến giờ ta biết được. Ai cũng mong đẹp, giàu, có tình yêu, có quyền lực nhưng đặc biệt cái mơ ước này của con, ta cho là thông minh nhứt.
Đối với tôi, từ góc nhìn một tu sĩ Phật giáo, tôi nói câu chuyện này là toàn bộ tinh hoa Phật Pháp. Tại sao vậy? – Tại vì con trùn con dế nó đam mê trong đời sống của nó, nó tiếp tục nó làm trùn làm dế. Chúng ta là những người hưởng dục, chúng ta còn đam mê trong 5 cảnh dục thì chúng ta không bao giờ chán, mãi không chán, tiếp tục chìm sâu đắm đuối trong đó. Trong khi đó, nói theo giáo lý Duyên khởi tham là đắm, ái là đắm, thủ là đuối. Ái duyên thủ rồi đắm rồi đuối! Ước mơ của anh giáo dân này rất thông minh nhưng rất Phật Pháp. Có nghĩa con không mong giàu sang, con không mong cái gì cao siêu, con chỉ mong ‘đừng bao giờ chán’.
Hôm nay mình thấy rằng Đế Thích, rồi Cấp Cô Độc, bà Visakha ngay bây giờ còn tha thiết (vattarata) chuyện luân hồi. Họ chưa đành lòng giũ áo ra đi. Nhưng cái ớn nhứt một ngày nào đó họ chán rồi mà tuổi thọ họ chưa hết, sống mà tôi gọi là những ngày tàn đó thì nó nản lắm! Dĩ nhiên bậc Thánh người ta không còn bất mãn nữa, nhưng nhìn từ góc độ của mình thì mấy chục ngàn đại kiếp cứ đi ra đi vô, hít thở, hít thở. Nếu trên cõi trời biết rõ ờ đây là danh đây là sắc. Cái này danh nè, cái này sắc nè. Cái này sanh, cái này diệt. Sanh – diệt – danh – sắc – sanh – diệt – danh – sắc…cũng nản!
Rồi kết thúc bài Kinh bằng câu chuyện ‘Không bao giờ chán’. Quý vị nhớ dùm câu chuyện này, tuy nó là chuyện của Chúa nhưng nó cực kỳ Phật giáo, vô cùng Phật giáo!
Chúc các vị một ngày vui, ngày mai chúng ta sẽ gặp lại nhau./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=Je-2UksxRO0&abt=Kinh+%C3%90%E1%BA%BF-Th%C3%ADch+S%E1%BB%9F+V%E1%BA%A5n+2
Đời sống đối với mình nó là cái mền làm mình ngộp hay cái mền làm mình ấm là do mình thôi. Khi tròn bổn phận thì mình vui. Chớ sống tắc trách thì đâu có vui. Có duyên đi tu thì không nói rồi. Còn không, làm chồng làm cha làm con thì mình phải có trách nhiệm, nhưng phải nhớ trách nhiệm đó là cái mền làm mình ấm chứ không làm mình nghẹt thở.
Cho nên bài Kinh Thánh Cầu Ngài dạy: Có những kẻ mang thân sinh tử lại tiếp tục đầu tư sanh tử cho đời sau kiếp khác. Đó là phàm cầu (cầu: kiếm tìm). Còn Thánh cầu là trong thân sanh tử mà lại hướng đến sự giải thoát sanh tử.
Ở đây vị tỳ kheo muốn giữ giới trong sạch thì phải luôn tâm niệm rằng giữ giới không phải để ràng buộc mình mà giữ giới để trang nghiêm chính mình.
- Cái bậy của phàm phu là nghĩ tự do là muốn làm gì thì làm.
- Thánh nhân thì định nghĩa tự do là không bị cái ‘muốn’ điều khiển.
- Những gì hại mình hại người đời này đời sau, đó gọi là không nên.
- Còn hoạt động nào của thân của miệng mà đem lại lợi ích cho mình cho người, làm cho mình vui, cho người khác vui, vui cho đời này đời sau thì cái đó mới gọi là nên.
Cho nên chuyện giữ giới đầu tiên là phải ghi nhận thân hành nào nên và không nên, khẩu hành nào nên và không nên.
Tiếp theo vị tỳ kheo phải quan tâm đến lý tưởng sống hiện tại của mình (pariyesana). Trong thân sanh tử này ta đang trang nghiêm giới hạnh để làm gì, trang nghiêm giới hạnh để hướng đến các quả vị Ác ma thiên tử, Đế Thích, Phạm thiên, chuyển luân vương hay ta trang nghiêm thân khẩu để hướng đến cứu cánh giải thoát. Vị tỳ kheo xác định rõ cứu cánh của mình thì giới hạnh đó được xem là giới học Vô lậu. Còn không thì giới học Hữu lậu (còn hướng tới sanh tử).
Tiếp theo Đế Thích hỏi Thế Tôn thế nào là hộ trì các căn (thu thúc lục căn thế nào). Đức Phật cũng một lần nữa xét thấy căn tánh của Đế Thích là chỉ hợp với chuyện nên và không nên, do tính ổng lu bu. Các vị để ý từ trên xuống hết 14 câu hỏi Đức Phật cứ nhắc đi nhắc lại một tinh thần thôi cho vua Đế Thích. Hỏi thu thúc lục căn làm sao thì Ngài cũng dạy Đế Thích: Khi 6 căn biết 6 trần thì hành giả đương nhiên phải có 6 thọ (hay 3 thọ, 5 thọ). Hành giả biết rõ cảm thọ nào là nên và không nên (sevitabba asevitabba).
Ở đây vị tỳ kheo thu thúc lục căn phải lưu ý đến xúc, thọ có những cái nên & không nên. Mình từ chối không đi đến những chỗ ăn chơi cũng có nghĩa là từ chối cái xúc không nên. Mình đến chùa đến thiền viện có nghĩa mình đang tìm đến những cái xúc nên. Gặp bạn tốt là cái xúc nên, mà gặp người bất thiện thì chỉ có tinh thần đi xuống thì đó là không nên.
Nên nhớ chữ ‘xúc’ đây nghĩa rất rộng. Mở một trang web, một chương trình TV, gặp gỡ một người, đọc 1 trang báo, nghe 1 bản tin, tìm đến 1 nơi chốn, tất thảy đều là 6 xúc hết. Trong đó chỉ có hai loại nên và không nên.
Tiếp theo Đế Thích hỏi: “Bạch Thế Tôn, có phải tất cả những người xuất gia tu hành sa môn Bà la môn đều cùng một tư tưởng, cùng một giới hạnh, cùng một mong cầu, cùng một chí hướng hay không (tiếng Pali là accantanittha: mục đích, lý tưởng, cứu cánh, điểm đến ở cuối đường).
Đức Phật dạy rằng “Chỉ có Thánh nhân mới được gọi là tương đồng. Phàm phu thì cái gì cũng khó lường”.
Tầng thấp nhất Thánh nhân là Tu đà hườn thì chuyện đầu tiên là không còn thân kiến, không còn chấp rằng đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức của tôi, tôi chính là sắc thọ tưởng hành thức. Ngay trên điểm đồng này, tất cả những dị biệt còn lại đều trở thành vô nghĩa. Ngàn, tỷ vị thánh trong đó có Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả, Độc giác, Toàn giác, ví dụ vậy (trong Kinh nói có những hội chúng cả 5.000 vị Độc giác ngồi chung với nhau. Có những hội chúng mấy trăm vị Thinh Văn, ngàn vị ngồi chung với nhau) thì giữa các vị có điểm đồng tối thiểu và cực kỳ căn bản, đó là ‘Đây không phải là tôi, tôi không phải là cái này. Sắc thọ tưởng hành thức không phải là tôi, tôi không phải là sắc thọ tưởng hành thức”.
Riêng phàm phu thì khác. Phàm phu có học đạo và phàm phu không có học đạo là đã khác nhau, cái này không cần nói. Rồi giữa những phàm phu có học đạo lại có khác nhau nữa. Có vị thì hướng đến quả vị Chánh Đẳng giác, Độc Giác, Thinh Văn Giác.
Trong đám có học đạo lại chia hai phe.
- Nhóm một hiểu vạn hữu là vô ngã vô thường, do duyên mà có, có rồi phải mất.
- Nhóm hai, ‘tôi’ am tường lý duyên khởi, ‘tôi’ am tường lý Bốn đế, ‘tôi’ am tường lý tam tướng, trong đám đông này chỉ có một mình ‘tôi’ là hiểu lý vô ngã sâu sắc nhứt, không ai bằng ‘tôi’. Tức là ngay trong đám tu học ngon lành lại lòi ra cái đám tự hào về kiến thức vô ngã của mình. Các vị coi bậy cỡ nào.
Tôi cũng đã nhắc không biết bao nhiêu lần: người bị bịnh thì phải uống thuốc. Chuyện uống thuốc đó tuyệt đối không có cái gì đáng để mình tự hào tự đắc, tự mãn, tự kiêu tự đại tự tôn. Và mai này mình có hết bịnh, thì cái chuyện hết bịnh nó cũng không phải là cái gì để mình tự hào tự đắc tự kiêu. Mình học Đạo cũng vậy. Quý vị có hành thiền, có giữ giới, có bố thí có cái gì đi nữa thì cũng chỉ là ‘uống thuốc’ thôi! Mai này quý vị có trở thành A la hán để cho người khác quỳ lạy quý vị, họ có tôn kính quý yêu quý vị thì là chuyện của người ta, nhưng bản thân vị A la hán thì không hề thấy rằng mình là ghê gớm. Không thấy mình hay ho gì hết. Ngài chỉ thấy một chuyện rất đơn giản: CHUYỆN NÊN LÀM ĐÃ LÀM RỒI VÀ KIẾP NÀY LÀ THÂN CUỐI (Vô hữu hậu thân: không còn thân sau nữa). Vị đó không lấy đó làm điều để mà tự đắc tự kiêu, thấy mình hay hơn người khác, người khác không sánh bằng mình. Chuyện đó không có !
Cho nên chỉ có thánh nhân, ở tầng thánh thấp nhất là đã có điểm tương đồng rất căn bản, căn cơ. Đó là vạn hữu do duyên mà có, có rồi phải bị mất. Mọi nỗ lực tu tập chỉ là ‘uống thuốc để chữa bịnh. Bịnh hết rồi thì thôi không còn chuyện gì để nói’.
Còn phàm phu mình không biết đạo thì dựa vào tiền bạc, nhan sắc, sức khỏe. Tới lúc học được đạo rồi thì lại dựa vào giới hạnh, kiến thức, công đức mà mình hành trì được. Quái gở vậy!
Ở đây Thế Tôn xác định với thiên vương Đế Thích chỉ có thánh nhân mới đáng được gọi là tương đồng nhau về tư tưởng, tương đồng nhau về cứu cánh, về lý tưởng, về điểm đến ở cuối đường. Còn phàm phu thì chuyện đó hoàn toàn khó lường.
Kết thúc bài Kinh thì vua khoe với Thế Tôn bây giờ cảm giác của con cùng lúc rất nhiều lợi ích: con có thể làm chủ được cõi tái sanh của con. Con có đi đến cảnh giới nào đi nữa thì con cũng được những điều con muốn. Vị Đế Thích biết rõ cuối cùng sẽ đi về cõi Tịnh cư cao nhứt.
Vua Đế Thích, bà Visakha, ông Cấp Cô Độc, ba người này gọi là Vattarata: kẻ khoái sanh tử. Đế Thích bây giờ trẻ măng. Ổng sẽ làm Đế Thích 36 – 40 triệu năm nữa. Sở dĩ đến 40 là vì Đế Thích lúc nào cũng sống lâu hơn người khác mới mất. Ổng trở xuống cõi người làm Chuyển luân vương rồi đắc Nhị quả Tư đà hàm. Từ đó ổng trở về trời làm Đế Thích một lần nữa ổng đắc A na hàm. Rồi từ A na hàm này ổng đi luôn. Có nghĩa từ bây giờ ổng chỉ còn hai lần cõi Dục nữa thôi, và 5 lần cõi Sắc. Tổng cộng là 7 lần tái sinh. Có nghĩa 1 lần làm chuyển luân vương, 1 lần làm đế Thích cõi dục. Xong ổng sẽ về cõi tịnh cư thấp nhứt là cõi Vô phiền, sau đó Vô nhiệt, rồi Thiện hiện, Thiện kiến. Cuối cùng là cõ Sắc cứu cánh (Akanittha).
Như vậy không kể thời gian Đế Thích ở cõi Dục, chỉ kể thời gian Đế Thích đi về Tịnh Cư là thấy ngán rồi. Cõi đầu tiên là Vô phiền là 1.000 đại kiếp. Vô nhiệt là 2.000. Thiện hiện là 4.000 đại kiếp. Thiện kiến là 8.000. Sắc cứu cánh là 16.000 đại kiếp. Tổng cộng còn luân hồi 31.000 đại kiếp!
Có nghĩa là ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên, A Nan, Ca Diếp mọi người đã Niết bàn hết rồi mà Đế thích, bà Visakha, ông Cấp Cô Độc, ba vị Mạnh thường quân hộ Pháp đắc lực và tích cực nhứt này họ phải 31.000 đại kiếp nữa thì họ mới kết thúc cuộc chơi và tới điểm đến cuối đường. Dĩ nhiên mình phải hiểu ngầm là từ đây về sau các vị đó không còn phải biết cảnh sanh ly tử biệt, bịnh hoạn, già nua nữa, không còn đau đớn sợ hãi nữa. Nhưng nếu nói rốt ráo lấy từ cái nhìn của phàm phu thì mình phải nhìn nhận những kiếp luân hồi sắp tới họ rất sướng. Nhưng với cái nhìn của Thánh nhân thì đó là sự lập lại rất tẻ nhạt, mà cái ớn nhứt trên đời này là sống mà không có đam mê.
Tôi xin kết thúc bài Kinh này bằng câu chuyện tào lao, mà mong quý vị ghi nhận coi đó như điểm chốt lại bài Kinh này.
Một ngày kia, có anh tín đồ rất ngoan đạo bên Thiên Chúa ảnh chết. Hồn ảnh về Thiên đường gặp đức Chúa Trời ở đó. Ảnh nhìn thấy kim cương khối nào khối nấy to như đá tảng trong công viên . Rồi ở đó mỹ nữ giai nhân, bông hoa trái đầy đủ trời xanh mây trắng nắng vàng. Những dòng suối, những thiên thần, thỏ trắng, bầy nai vui vẻ lắm. Đức Chúa Trời hỏi ảnh một câu: “Con cả một đời ngoan đạo. Giờ con muốn gì thì ta sẽ ban cho con một điều ước”. Ảnh nhìn quanh ảnh nói: “Thưa đấng Chí Tôn, con ở dưới trần con mê kim cương quá, con cũng là người háo sắc, con cũng thích đi du lịch. Ở trần gian làm gì có cảnh đẹp như vầy, có người đẹp lộng lẫy như vầy. Mà kim cương ở dưới trần tụi con tính bằng carat, mà ở đây kim cương tảng tảng thế này. Con thưa với Chúa Trời con biết tánh con. Con lên đây ở một thời gian là thấy mọi thứ cũng vậy hà, mà hiện giờ trước mắt con nhớ làng quê con ở dưới quá đi. Cho nên Chúa Trời thương cho con một điều ước thì cho con xin bốn chữ ‘Không bao giờ chán’. Chúa Trời mới nói đây là một ước mơ thông minh nhứt từ xưa đến giờ ta biết được. Ai cũng mong đẹp, giàu, có tình yêu, có quyền lực nhưng đặc biệt cái mơ ước này của con, ta cho là thông minh nhứt.
Đối với tôi, từ góc nhìn một tu sĩ Phật giáo, tôi nói câu chuyện này là toàn bộ tinh hoa Phật Pháp. Tại sao vậy? – Tại vì con trùn con dế nó đam mê trong đời sống của nó, nó tiếp tục nó làm trùn làm dế. Chúng ta là những người hưởng dục, chúng ta còn đam mê trong 5 cảnh dục thì chúng ta không bao giờ chán, mãi không chán, tiếp tục chìm sâu đắm đuối trong đó. Trong khi đó, nói theo giáo lý Duyên khởi tham là đắm, ái là đắm, thủ là đuối. Ái duyên thủ rồi đắm rồi đuối! Ước mơ của anh giáo dân này rất thông minh nhưng rất Phật Pháp. Có nghĩa con không mong giàu sang, con không mong cái gì cao siêu, con chỉ mong ‘đừng bao giờ chán’.
Hôm nay mình thấy rằng Đế Thích, rồi Cấp Cô Độc, bà Visakha ngay bây giờ còn tha thiết (vattarata) chuyện luân hồi. Họ chưa đành lòng giũ áo ra đi. Nhưng cái ớn nhứt một ngày nào đó họ chán rồi mà tuổi thọ họ chưa hết, sống mà tôi gọi là những ngày tàn đó thì nó nản lắm! Dĩ nhiên bậc Thánh người ta không còn bất mãn nữa, nhưng nhìn từ góc độ của mình thì mấy chục ngàn đại kiếp cứ đi ra đi vô, hít thở, hít thở. Nếu trên cõi trời biết rõ ờ đây là danh đây là sắc. Cái này danh nè, cái này sắc nè. Cái này sanh, cái này diệt. Sanh – diệt – danh – sắc – sanh – diệt – danh – sắc…cũng nản!
Rồi kết thúc bài Kinh bằng câu chuyện ‘Không bao giờ chán’. Quý vị nhớ dùm câu chuyện này, tuy nó là chuyện của Chúa nhưng nó cực kỳ Phật giáo, vô cùng Phật giáo!
Chúc các vị một ngày vui, ngày mai chúng ta sẽ gặp lại nhau./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh