2022-01-03, 03:12 PM
(tt và hết) Chương V
Ngũ quyền, Ngũ căn (2-2)
(Pañcindriya)
Tỳ Kheo Chánh Minh
Định-quyền (samādhindriya).
Định-quyền có ý-nghĩa: làm cho các pháp đồng sanh gom lại, không cho tán-loạn. Định chưa trở thành quyền, nó có hai loại:
1. Pakaṭi samādhi: định thông-thường.
2. Bhāvanā samādhi: định tu-tập.
Định thông-thường là loại định có trong sát-na tâm (khaṇa) nó gom các pháp trong tâm an-trú trong cảnh sắc, thinh, hương, vị, xúc, hay trong bố-thí, trì-giới ...
Định tu-tập là cận-định hay định kiên-cố. Định tu-tập có mãnh lực thiêu đốt các phiền-não nhất là các pháp chướng-ngại, ví như sức nóng mặt trời được gom lại trong tròng kính, có thể phát ra tia lửa thiêu đốt các vật khác.
Tướng của định-quyền được hiển-lộ khi tâm hoàn toàn yên-lặng, không bị xáo động, khi ấy vùng triền (saṃyojāna) yên-lặng, những phiền-não ở vùng triền bị áp chế không thể sanh-khởi.
Định có sự yên-lặng là thành-tựu, nên khi định phát huy sức mạnh, thì tâm yên-lặng, đồng nghĩa các pháp đồng sanh với định cũng yên-lặng.
Trong thiền Quán nhờ sự loại trừ tâm loạn-động của định, trí quán phát huy sức mạnh như người có mắt dùng mũi kim nhọn xuyên qua lớp vải tùy-miên để sát trừ chấy, rận thân-kiến, hoài-nghi ...
Nói cách khác, định-quyền tích cực trợ giúp cho trí quán xuyên qua một trong ba cửa giải-thoát là: Cửa Vô-tướng (animiṭṭa mukha), cửa Vô-lụy (appaṇihiṭa mukha), cửa Không-tánh (suññaṭa mukha) để sát trừ pháp ngủ-ngầm như thân-kiến, hoài-nghi ... tức là trí-quán xuyên qua một trong ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã để sát-trừ phiền-não.
Nhờ định-quyền phát huy sức mạnh, nước tâm trở nên yên-lặng, tùy theo phước ba-la-mật tích lũy một trong ba tướng hiển-lộ rõ nhất.
Người tích lũy phước ba-la-mật do nương theo đức-tin là bố-thí, trì-giới tướng vô-thường hiển-lộ rõ hơn hai tướng kia, người tích lũy phước ba-la-mật bằng cách tu-tập thiền Chỉ trong quá-khứ là nương theo định là trưởng (adhipaṭi) thì tướng khổ hiện rõ hơn hai tướng kia. Người tích lũy phước ba la mật bằng con đường thiền Quán, tức là dùng trí làm trưởng thì tướng vô-ngã rõ hơn hai tướng kia.
Tuệ-quán hiện-tại bám vào một trong ba tưởng ấy và định-quyền khi ấy trở thành bệ phóng giúp trí-tuệ nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia, được gọi là goṭrabhū ñāṇa (tuệ Chuyển-tánh) thế là tuệ-đạo sanh-khởi vị ấy trở thành bậc Dự-lưu.
Tuệ-quyền (paññindriya).
Tuệ-quyền với ý-nghĩa là thấy rõ, trừ diệt sự tối tăm (vô-minh) giống như bốn quyền kia, trí hay tuệ có hai loại:
1. Pakaṭi ñāṇa: trí thông-thường.
2. Bhāvanā ñāṇa: trí tu-tập.
Chữ paññā nghĩa là PA + ÑĀ; PA là trọn vẹn hay đúng đắn. ÑĀ: sự biết. Paññā là sự hiểu biết trọn vẹn hay sự hiểu biết đúng.
Thường-trí là loại trí trong thế-tục, trí này rất đa dạng như trí về pháp-học, trí về các loại ngành nghề, trí về ngôn-ngữ ... các nhà khoa-học, các nhà nghiên-cứu ... phát-triển loại trí này ở mức độ cao và có kết quả tốt trong sự thành-đạt thế-tục.
Nói chung, thường-trí bao gồm trí-văn và trí-tư. Trí-tu (bhāvanāmayā paññā) là trí-tuệ sanh lên do tu-tập thiền Chỉ hay thiền Quán.
Tướng của trí-tu là thấu hiểu chân-tướng của pháp hữu-vi.
Tướng của tuệ-quyền được hiển-lộ khi hành-giả thấy được ba tướng vô-thường -khổ -vô-ngã. Trong đó, nếu trí-quyền phát huy sức mạnh thì tướng vô-ngã hiển-lộ rõ nhất so với hai tướng kia.
Nói gọn hơn, khi hành-giả đạt được tuệ Phổ-thông bấy giờ tuệ-quyền được hình thành, tuệ-quyền được hiển lộ khi tướng vô-ngã rõ ràng hơn hai tướng kia, hành-giả nỗ-lực tinh-tấn phát-triển tuệ-quyền càng lúc càng sung-mãn, cuối cùng thành-đạt được giải-thoát khổ.
Cần nên biết rằng: Tín và trí hỗ-trợ lẫn nhau bằng hổ-tương duyên (añnamañña paccaya) một cách tích cực.
Khi trí sanh-khởi quá mạnh, nương theo đó sẽ có nghi-hoặc sanh lên, bấy giờ tín-quyền với sự hướng tâm tin sẽ giúp trí ngăn chặn hoài-nghi. Khi tín sanh-khởi mãnh-liệt, nương theo đó tà-kiến (sự thấy sai, hiểu sai) sẽ sanh lên, bấy giờ trí sẽ giúp tín loại trừ sự thấy sai, hiểu sai, vì phận-sự của trí là đẩy lùi tăm tối.
Các Ngài có dạy rằng: kẻ thù ẩn mặt cùa trí là tà-kiến, kẻ thù ẩn mặt của trí là hoài-nghi.
Trí phát huy sức mạnh giúp tín càng thêm vững-chắc, vì trí là sự thấy rõ, biết rõ. Đã thấy rõ, biết rõ rồi thì sự tin tưởng trở nên đúng đắn và vững-chắc.
Tín phát huy sức mạnh giúp cho trí có cơ sở phát-triển, vì tín có công-năng làm trong sạch đối-tượng. Ví như một bức hoa văn, nếu bị bụi bặm bám đầy, nó không thể xinh đẹp, những đường nét sắc sảo không thể hiện ra trong mắt người xem vì bị bụi bám, nếu lau chùi sạch sẽ bức hoa văn sẽ trở nên trong sáng xinh đẹp, những đường nét sẽ hiện ra rõ ràng. Cũng vậy tín làm trong sạch cảnh (hay đối-tượng) giúp cho trí nhận rõ, thấy rõ.
Nhận rõ, thấy rõ cái gì? nhận thấy rõ ba tướng: vô-thường, khổ, vô-ngã.
Như vậy, rõ ràng ở giai-đoạn đầu, tín tích cực hỗ-trợ cho trí, khi trí sung-mãn lại giúp cho tín thêm vững-chắc và đúng đắn. Bấy giờ tín trở thành chánh-tín (sammāsaddhā), trí trở thành chánh-trí (sammāñāṇa).
Tương-tự tấn-quyền và định-quyền hỗ-trợ tích cực lẫn nhau.
Tấn với phận-sự nâng đỡ, giúp định gom góp các pháp đồng sanh hội-tụ lại. Nhưng kẻ thù ẩn mặt của tấn là phóng-dật, làm tán-loạn tâm, bấy giờ định-quyền sẽ làm cho các pháp yên-lặng trở lại.
Kẻ thù dấu mặt của định là uể-oải dã-dượi, chính sự yên-lặng quá mức đưa đến trạng-thái thụ-động làm tâm co rút, lười-biếng gọi là hôn-trầm, tâm bị lui sụt trước đề mục, khi ấy tấn lại hoạt động với tướng-trạng siêng năng, đốc thúc các pháp đồng sanh năng động trở lại, giúp định và các pháp đồng sanh trú-vững trong ấn-tướng của đề-mục thiền.
Riêng niệm có vai trò cân bằng các quyền kia, niệm giống như người đốc công, luôn chú ý đến các người thợ ở dưới quyền. Khi thấy một người nào chểnh mảng công việc hay thấy người nào làm sai, người đốc công đi đến nhắc nhở hay bảo làm việc cho đúng.
Niệm có tướng là sự trụ-vững có phận-sự là ghi nhớ, niệm càng vững mạnh các pháp quyền kia càng tiến triển sung-mãn một cách đúng đắn.
Nhưng vì sao các pháp quyền vốn tốt đẹp lại có thể sanh-khởi tà-kiến, hoài-nghi, phóng-dật, hôn-trầm? Điều này cũng giống như vị ngọt của trái cây, vốn là chất bổ dưỡng, nhưng nếu không khéo gìn-giữ nó sẽ trở thành chất say. Hay giống như sửa tươi vốn ngon ngọt, nhưng để lâu sẽ thành chua, để rồi khi dùng dễ sinh bệnh tiêu chảy.
Cũng vậy, các pháp quyền ở trên vốn là thù diệu, nhưng do sự dể-duôi (pamāda) cùng với tác-ý không khéo khiến các phiền-não, cấu uế nương từ đó sanh-khởi.
Trong Tăng-chi kinh có ghi mẫu đối thoại của hai vị trưỡng-lão Anuruddha và Sārīpuṭṭa như sau:
- "Thưa hiền-giả Sārīpuṭṭa! với thiên nhãn thanh-tịnh siêu nhân tôi có thể nhìn một ngàn thế giới.
Phấn chấn (āraddhaṃ) là tinh-tấn của tôi, không có thụ-động (asallīnaṃ), niệm được an-trú, không thất niệm.
Tuy vậy, tâm tôi chưa giải-thoát các lậu-hoặc, không có không chấp-thủ.
- Này hiền-giả Anuruddha! Hiền-giả suy nghĩ như sau: "với thiên nhãn... một ngàn thế giới", đây là kiêu-mạn của hiền-giả.
Này hiền-giả Anuruddha! Hiền-giả suy nghĩ như sau: "phấn chấn là tinh-tấn tôi... không thất niệm, tâm được khinh-an, không có cuồng-nhiệt (asāraddho) được định-tỉnh nhất tâm, đây là trạo cử của hiền-giả
Này hiền-giả Anuruddha! Hiền-giả suy nghĩ "tuy vậy... không có không chấp-thủ", đây là hối quá của hiền-giả.
Lành thay! nếu tôn giả Anuruddha đoạn trừ ba pháp này, không tác-ý đến ba pháp này, hãy chú tâm vào bất-tử giới (amaṭāya dhāṭuyā)".
Và nương theo lời dạy của trưởng-lão Sārīpuṭṭa, Ngài Anuruddha thành-tựu bậc A-la-hán sau một thời gian hành-pháp.
Đoạn kinh trên cho chúng ta thấy rằng:
1- Các pháp tốt có thể là duyên sanh-khởi pháp bất-thiện như thiên-nhãn thanh-tịnh có thể làm sanh-khởi kiêu-mạn ...
2- Do tác-ý không khéo, suy nghĩ không đúng đường lối, tức là có sự dể-duôi, khi ấy phóng-dật, hối-hận ... sanh-khởi.
3- Khi có tác-ý đúng, như tác-ý đến bất tử giới, sẽ đoạn trừ được những phiền-não nương sanh.
Trong năm quyền thì
1. Tín-quyền thuộc về giới có công-năng trừ diệt những phiền-não thô-thiển.
2. Niệm, tấn, định-quyền thuộc về định có công-năng diệt trừ những phiền-não ở vùng triền.
3. Tuệ-quyền trừ diệt những phiền-não ở vùng tùy-miên.
Như thế, khi tín, tấn, niệm, định-quyền sung-mãn sẽ đưa đến tuệ-quyền sung-mãn.
Riêng về tín, tấn, niệm đứng trước định và tuệ-quyền, giống như người giúp đức-vua nắm quyền bá chủ thiên hạ. Chúng nâng đỡ định và tuệ-quyền cho đến khi đạt được pháp thù thắng cao tột.
Khi tu-tập thiền Chỉ, hành-giả làm chủ được tâm, có thể chứng được tám thiền (bốn thiền sắc-giới và bốn thiền vô-sắc giới) bằng định-quyền, trong khi ấy tuệ-quyền sẽ trở thành năm thắng-trí như nhãn-thông, nhĩ-thông, túc-mạng thông ... Nếu hành-giả tu-tập thiền Quán, thì định-quyền sẽ làm hiển-lộ định không-tánh (suññaṭā samādhi), định vô-tướng (animiṭṭā samādhi) hay định vô-nguyện (appaṇihiṭā samādhi), khi ấy tuệ-quyền trở thành năm pháp thanh-tịnh liên quan đến tuệ, thành-đạt bốn tuệ đạo, bốn tuệ quả siêu-thế.
Khi Đức Thế-tôn trú ở Kosambi tại khu vườn Ghosiṭa. Bấy giờ, Ngài Piṇdolabhāradvāja tuyên bố với chánh trí: "sanh đã tận, phạm-hạnh đã hành".
Chư tỳ-khưu bạch hỏi Đức Thế-tôn, Ngài dạy rằng: "Do tu-tập, làm sung-mãn ba quyền, nên tỳ-khưu Piṇdolabhāradvāja tuyên bố: "Sanh đã tận, phạm-hạnh đã thành". Ba quyền ấy là gì? là niệm-quyền, định-quyền, tuệ-quyền". (Tương-ưng kinh)
Trưởng-lão Piṇdolabhāradvāja là vị đệ nhất về tiếng rống sư tử.
Người tu-tập Tín-quyền làm trưởng khi chứng-đắc Dự-lưu quả, gọi là bậc Tín giải-thoát (saddhā vimuṭṭi).
Người tu-tập Định-quyền là trưởng, chứng-đắc sơ định phát-triển tuệ-quán, chứng-đắc Dự-lưu quả, gọi là bậc Thân-chứng (kāyasakkhi).
Người tu-tập Tuệ-quyền là trưởng khi chứng-đắc Dự-lưu, gọi là bậc Kiến-đáo (diṭṭhippaṭṭa).
Nhưng trong năm quyền, quyền nào được xem là tối thượng? Đó là Tuệ-quyền. Vì sao? Vì rằng: tín-quyền chỉ có công-năng đoạn trừ những phiền-não cấu uế ở vùng thân-kiến.
Định-quyền, niệm-quyền, tấn-quyền thuộc về định uẩn chỉ có công-năng đoạn trừ phiền-não cấu uế ở vùng triền.
Chỉ có Tuệ-quyền mới có khả-năng trừ diệt trọn vẹn những phiền-não cấu uế sanh-khởi ở vùng tùy-miên.
Đức Phật dạy rằng: "Này chư tỳ-khưu, phàm có các bàn chân của loài hữu tình bộ hành, những bàn chân ấy nằm gọn trong bàn chân voi, bàn chân voi được xem là tối thượng trong các bàn chân. Cũng vậy, này chư tỳ-khưu, trong các bàn chân nào đưa đến giác-ngộ, tuệ-quyền được xem là tối thượng về phương diện giác-ngộ". (Tương-ưng kinh).
Chỗ trú của năm quyền
Trong Tương-ưng kinh, đức Phật dạy rằng:
"Kaṭṭha saddhindriyaṃ duṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu soṭāpaṭṭiyaṇyesu eṭṭha saddhin-driyaṃ daṭṭhabbaṃ".
"Cần tìm tín-quyền ở đâu?.
Cần phải tìm tín-quyền ở bốn yếu tố của bậc Dự-lưu".
Nghĩa là tín-quyền được hiển-lộ trong bốn chi phần của vị Thánh Tu-đà-hườn. Đó là:
1. Đức-tin bất động trong ân-đức Phật.
2. Đức-tin bất động trong ân-đức Pháp.
3. Đức-tin bất động trong ân-đức Tăng.
4. Có giới thanh-tịnh.
Giới thanh-tịnh là nền-tảng hay nhân gần (padaṭ-ṭhāna) của định siêu-thế.
Đây là bốn yếu tố bảo đảm sự chứng-đắc Dự-lưu trí đạo (soṭāpaṭṭi maggañāṇa) trong vòng luân-hồi.
Trong Trung-bộ, bài kinh Chánh tri-kiến (Sammādiṭṭṭhi suṭṭa), ngài Sārīpuṭṭa có giảng cho chư tỳ-khưu những pháp làm thành-tựu chánh tri-kiến, có đoạn ghi rằng:
Sammādiṭṭhi sammādiṭṭhi āvuso vuc-caṭi kiṭṭāvaṭā nekho āvuso ariyasāvako sam-mādiṭṭhi hoṭi, ujugaṭassa diṭṭhi dhamme aveccappasādena samannāgaṭo āgaṭo sad-dhammaṃ’ ṭi.
- "Này chư hiền! Chánh kiến, chánh kiến được gọi như vậy. Này chư hiền! làm thế nào vị Thánh đệ tử có chánh kiến, có sự thấy ngay thẳng, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành-tựu diệu pháp này".
"Lòng tin tuyệt đối" (aveccappasādena), ở đây ám chỉ vị ấy đạt đến cận định khi quán tưởng về ân-đức Phật, ân-đức Pháp, ân-đức Tăng.
Khi hành-giả niệm tưởng đến ân-đức Phật-Pháp-Tăng đạt đến cận định, người ấy đã làm chủ được tâm, đồng thời vị ấy phải biết rằng: "khả-năng kiểm-soát tâm là do đức-tin chỉ đạo", tức là đức-tin này được tu-tập làm cho sung-mãn, trở thành tín-quyền
Nền-tảng của định (hay định-quyền) là ba chi phần giới là chánh-ngữ -chánh-nghiệp -chánh-mạng, trong đó chánh-mạng có vai trò quan trọng trong sự thành-tựu định-quyền ngay trong kiếp sống này.
Nói đến tín-quyền là nói đến giới, tín-quyền được tu-tập đồng nghĩa giới được thanh-tịnh. Khi giới được thanh-tịnh, không bị tì vết, không bị ô-nhiễm là do đức-tin làm cho trong sạch, giới ấy thoát khỏi các cấu uế, ô-nhiễm là ngã-mạng, ái và tà-kiến ở phạm vi thô-thiển.
Trong khi quán-xét giới-hạnh, hành-giả phải hiểu rằng: "Đức-tin nổi bật trong giới ấy".
Sự bất lực, không thể thọ-trì-giới được trong sạch, trong những điều-kiện cần có của giới, được gọi là "giới bị rạn nứt".
Trong Tăng-chi kinh Đức Thế-tôn có dạy bà Visākhā rằng: "Này Visākhā! Vị thánh đệ tử niệm giới không bị hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, không bị chấp-thủ đưa đến thiền-định".
Dĩ nhiên, người cư-sĩ vì phải giao tiếp giữa những điều-kiện thế-gian bình thường, nên phần lớn "giới không trong sạch".
Các Ngài như Sudinna, Raṭṭhapāla ... nhận-định rằng: "Đời sống phạm-hạnh sẽ không được trong sạch như võ ốc xà cừ được đánh bóng, nếu còn sống tại gia".
Những cư-sĩ hay sa-môn, là đệ tử trong giáo-pháp đức Phật, cần tự kiểm-soát để biết những trạng-thái biến-động, những tán-loạn trong tâm còn hay mất, tức là trạng-thái làm chủ tâm tiến triển ra sao? và điều muốn nhấn mạnh là tín-quyền chỉ có thể tìm thấy ở một trong bốn yếu tố của bậc Dự-lưu.
Nếu hành-giả là người tu-tập niệm tưởng ân-đức Phật-Pháp-Tăng đức-tin nổi bậc rõ ràng, còn những đề mục khác đức-tin cũng nỗi bậc khi đạt đến cận-định. Vì rằng: giới được trong sạch là một yếu tố để nhận diện ra tín-quyền.
Kaṭṭha viriyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu sammappadhānesu eṭṭha vī-riyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ.
"Cần tìm thấy tấn-quyền ở đâu?
Cần thấy tấn-quyền ở bốn Chánh-cần".
Hành-giả khi tu-tập thiền Chỉ hay thiền Quán, có thể tìm thấy tấn-quyền khi kiểm-soát tâm. Tức là, khi an-trú niệm vào đề mục, trạng-thái chao-động, loạn tán, bất ổn nơi tâm còn hay vắng lặng?.
Chỉ khi nào hành-giả với sự cố-gắng nỗ-lực làm chủ được tâm, an-trú được niệm gắn chặt vào đề mục, khi ấy tấn-quyền được nổi bật.
Hành-giả tuy nỗ-lực tinh-tấn tu-tập các đề mục thiền Chỉ, hành bốn Niệm-xứ, hoặc thiền Quán, nhưng chưa đạt được trạng-thái an-trú niệm vào đề mục, phải tự hiểu rằng: "tinh-tấn của ta chưa đủ lực", nghĩa là: hành-giả chỉ có được tinh-tấn tu-tập thông-thường, tinh-tấn này chưa trở thành tấn-quyền.
Cân phải lập chí nguyện (adhiṭṭhāna) rằng:
"Dầu chỉ còn da, dầu chỉ còn gân, dầu chỉ còn xương, dầu máu thịt khô cạn, ta vẫn quyết tâm không chùn bước. Cho đến khi nào thân-kiến, ác-nghiệp và khổ-cảnh luân-hồi (apāya saṃsāra) của ta, bị đoạn-diệt hoàn toàn ngay chính trong kiếp sống này".
Đây chỉ là bản chất riêng biệt duy nhất, có một không hai của tấn-quyền, đó là sự quyết tâm mãnh-liệt trong bốn chánh-cần. Như sự tinh-tấn của trưởng-lão Cakkhupāla là điển hình.
Khi hành-giả có sự tinh-tấn như thế, hành-giả cần nhận biết rằng: "Đối với sự kiểm-soát tâm, tinh-tấn chiếm địa vị nổi bật".
Các bất-thiện pháp là phóng-tâm, giao-động, tán-loạn, hôn-trầm, dã-dượi ... đã bị tinh-tấn đẩy lùi và tiêu diệt. Tâm ở trạng-thái thuần phục bên cạnh đề mục, như còn bò nằm yên dưới cây cọc đóng cứng xuống đất, các thiện-pháp đang sanh-khởi và tăng-trưởng.
Hành-giả làm chủ được tâm khi tấn-quyền được vững mạnh.
Kaṭṭha saṭindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu saṭipaṭṭhānesu eṭṭha saṭindri-yaṃ daṭṭhabbaṃï.
"Cần tìm thấy niệm-quyền ở đâu?
Cần thấy niệm-quyền ở bốn Niệm-xứ".
Hành-giả thực-hành pháp niệm qua bốn Niệm-xứ như niệm thân trong thân với đề mục hơi thở chẳng hạn.
Khi sự chú tâm được an-trú hành-giả có thể an-trú niệm theo thời gian tùy thích, tức là an-trú bao lâu cũng được như-ý, hành-giả cần phải hiểu rằng: "niệm đang chiếm ưu thế". Tâm phóng theo ngoại cảnh đã biến mất, chỉ còn gắn liền với đề mục, hành-giả có được khả-năng làm chủ tâm mình.
Kaṭṭha samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu jhānesu eṭṭha samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃï.
"Cần thấy định-quyền ở đâu?
Cần thấy định-quyền trong bốn tầng thiền".
Bốn tầng thiền ở đây là chỉ cho bốn thiền hữu-sắc.
Trong việc tu-tập Chỉ-tịnh, như niệm hơi thở ra hơi thở vào, niệm đề mục kasiṇa ... Khi đạt được cận-định là mức độ thấp nhất trong Chỉ-tịnh, khi ấy bốn pháp chướng-ngại là: hôn-trầm, hoài-nghi, sân-độc, phóng-dật đã bị áp chế bởi bốn chi-thiền là tầm, tứ, hỷ, lạc. Từ đó định được phát-triển sung-mãn, khi áp chế được tham-dục, định này trở thành định-quyền.
Những pháp chướng-ngại đã tung hoành trong chuỗi thời gian dài trong những kiếp luân-hồi quá-khứ và trong hiện-tại được áp chế, sự chú tâm vào đề mục của thiền Chỉ được kiên-định, tâm được an-tịnh.
Hành-giả nhận biết rằng: "định chiếm ưu thế", tâm giao động, tán loạn hay bất ổn không còn.
Kaṭṭha paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu ariyasaccesu eṭṭha paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃï.
"Cần tìm tuệ-quyền ở đâu?
Cần thấy tuệ-quyền ở bốn Thánh-đế".
Những chúng-sanh có duyên lành gặp được giáo-pháp của đức Phật, thành đạt trí hiểu biết bốn chân lý. Đây là một giá trị cao tột, chỉ khi nào có trí về: "đây là khổ, đây là nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ, đây là thánh đạo tám chi đưa đến diệt khổ". Khi ấy mới có thể thoát ra khỏi sợi dây trói-buộc là thân-kiến, thoát ra ác-hạnh, thoát ra khổ luân-hồi.
Để có được trí thấy được tứ đế, hành-giả cần cố-gắng đạt được tối thiểu là tuệ Phân-biệt danh-sắc, tức là phải có tuệ-quán về sáu thành-phần căn-bản của danh-sắc, đó là: đất (paṭhāvī), nước (āpo), gió (vāyo), lửa (ṭejo), hư không (ākāsa) và thức (viññāṇa).
Danh-sắc được hình thành qua sáu yếu tố này.
Loại vật-thực nuôi dưỡng cho tuệ Phân-biệt danh-sắc chính là trí-văn hay trí-tư qua sự học pháp, ghi nhớ, suy-tư nghiền-ngẫm, bàn-luận, cật vấn ... Hai loại trí-văn, trí-tư giúp hành-giả thực hành tuệ-quán, phân biệt được danh-sắc một cách mau chóng.
Khi sáu nguyên tố này được hiện rõ qua trí-tu, xem như hành-giả đặt xong nền móng cho tuệ-quyền sẽ sanh-khởi.
Có nhiều hành-giả thực-hành ngay pháp-hành minh-sát dưới sự chỉ dạy của Thiền-sư, không kinh qua pháp-học, vị ấy cũng đạt được tuệ Phân-biệt danh-sắc này.
Khi hành-giả nỗ-lực phát-triển tuệ-quán, thành-đạt được tuệ Sanh-diệt, là khi thấy các pháp sanh rồi diệt ngay, không kéo dài hơn một nháy mắt, ấn-tướng của đề mục cứ sanh diệt liên tục nhanh chóng như bóng đèn điện chớp-tắt liên hồi.
Khi ấy xem như tuệ-quyền đang hình thành, vì rằng: "Hành-giả đạt được Kiến-tịnh trong bảy pháp thanh-tịnh".
Sự sinh diệt nhanh chóng là: "tính-chất vô-thường" của pháp hữu-vi, nếu nhận biết rõ về tánh vô-thường, có thể nhận biết được tính vô-ngã trong đó.
Khi hành-giả nhận rõ tướng vô-thường qua sự sanh diệt nhanh chóng, thì tưởng vô-ngã (anṭṭasaññā) sanh-khởi, bấy giờ hành-giả tạm thời trừ diệt được thân-kiến "tôi là".
Khi tướng vô-ngã nổi bật, tuệ-quán sẽ trừ diệt được ngã-mạng, chứng ngộ Níp-bàn ngay trong kiếp sống này.
Sự hiểu biết trọn vẹn khổ-đế chỉ khi nào đắc thánh quả A-la-hán (arahaṭṭaphala).
Như vậy, hành-giả nỗ-lực tinh-tấn trong thời gian nào đó, đạt được tuệ-quán thấy rõ bản chất của sáu nguyên tố căn-bản của danh-sắc cả bên ngoài lẫn bên trong và thấy rõ tính thay đổi nhanh chóng của chúng. Bấy giờ niệm đã bám sát vào chúng (tức là ấn-tướng của đề mục), lúc này hành-giả cần biết rằng: "tuệ-quyền đang sanh-khởi", đồng thời hành-giả cũng nhận-thức rằng: "danh-sắc này có tính điên-đảo, lừa mị, không đáng tin tưởng".
Chính sự điên-đảo, lừa mị của danh-sắc là nét đặc biệt ẩn tàng trong tâm chúng-sanh, khiến chúng-sanh lăn trôi trong vòng luân-hồi vô định. Pháp điên-đảo ẩn trong tâm hành-giả dần dần bị đẩy lùi, cuối cùng biến mất.
Khi pháp điên-đảo biến mất, hành-giả nhận thấy rằng: danh-sắc này không phải là người, không phải là chúng-sanh, không phải là chư-thiên, phạm-thiên, đế-thích, voi, trâu, bò, ngựa... chi chi cả. Đơn giản chúng chỉ là danh-sắc mà thôi và danh-sắc này luôn thay đổi, biến hoại không ngừng.
Thoát khỏi tính điên-đảo, đồng nghĩa giác-ngộ tính như thật của pháp hữu-vi và điều này chỉ có được qua trí-tu, khi làm chủ được tâm bằng pháp niệm.
Nếu khổ-đế được thấu đạt dĩ nhiên ba đế sau cũng được thấu đạt. Trong sự nhận biết về tứ đế, sự biết của phàm-phu là biết trên "phương diện lý thuyết" (ambodha -tùy giác) xuyên qua trí-tư do tác-dụng của trí-văn, sự biết của bậc Thánh như bậc Dự-lưu là sự thông-đạt (paṭivedha), là kết quả của trí-tu.
Sự hiểu biết qua lý thuyết tác động đến trí suy-luận giống như một người đi đến vùng đất, nhìn thấy cây cỏ chung quanh còn đọng nước, không khí đang ẩm ướt, y hiểu rằng "nơi đây vừa có trận mưa". nhưng mưa diễn tiến như thế nào, y không biết rõ. Hay giống như người thấy ánh sáng phát ra từ ngọn lửa lúc ban đêm, y biết rằng: "nơi ấy đang có lửa", nhưng ngọn lửa ấy phát lên do vật dẫn hỏa là loại nào? ngọn lửa ấy có sức nóng ra sao? ngọn lửa ấy lớn nhỏ cỡ nào? y không biết được.
Ngược lại, thông-đạt-trí thấy, biết rõ ràng như người chứng kiến trận mưa, hay người đang ngồi cạnh ánh lửa.
Đức Phật dạy rằng:
"Saddhindriyaṃ bhāveṭi vīriyaṃ bhā-veṭi saṭindriyaṃ bhāveṭi sāmadhindriyaṃ bhāveṭi paññindriyaṃ bhāveṭi...".
Có ý-nghĩa rằng:
"Tín-quyền nên tu-tập
"Tấn-quyền nên tu-tập.
"Niệm-quyền nên tu-tập.
"Định-quyền nên tu-tập.
"Tuệ-quyền nên tu-tập.
Năm quyền này nên tu-tập đưa đến sự thành-đạt chỉ -quán dễ-dàng, có lợi-ích to lớn".
Một người chưa tu-tập năm quyền như đất nước không có vị lãnh-đạo, đất nước ấy giống như vùng rừng núi, có những bộ lạc man khai cư trú. Một quốc độ không có vị vua cai trị thì không có pháp-luật, nơi ấy mọi công dân sống tự tung tự tác, chẳng ai qui thuận ai, để rồi ṁạnh được yếu thua", loạn lạc khởi dậy, tội ác nối tiếp tội ác.
Cũng vậy, tâm người chưa tu-tập một trong năm quyền, tâm mãi mãi bị loạn-động, bị ngự-trị bởi ác pháp, bị ô-nhiễm bởi các pháp bất-thiện, họ cũng giống như người bị phi nhân nhập vào, không dám nghe những bài kinh như "Iṭipiso..." hay "Heṭu paccayo...".
Người chưa tu-tập năm quyền, khi nghe bàn luận về những nhân sanh hoan-hỷ (paccaya sanṭosa) trong thiện-pháp, hoặc pháp tu-tập, họ nhanh chóng tìm lý lẽ phản-bác, êm dịu hơn họ sẽ "im lặng để cáo từ". Trong họ, ước muốn thực-hành thiền Chỉ hay thiền Quán không hề sanh-khởi, có chăng cũng chỉ là ngọn lửa le lói để rồi tắt phụp.
Trái lại, người tu-tập năm quyền, giống như quốc độ có được vị minh chúa trị vì, giống như những thành phố, châu, quận, làng mạc ở chung quanh vùng kinh đô (majjhima desa), là nơi có pháp-luật bảo đảm sự an-toàn về nhân mạng, tài-sản... Người ấy sẽ vững tin giáo-pháp của đức Phật, không còn bị những lý-thuyết sai lạc cuốn hút, người ấy luôn vững tâm trong đường lối duy nhất của đức Phật đã chỉ dạy.
Khi nghe bàn luận về những nguyên-nhân sanh-khởi hoan-hỷ, hay những pháp môn tu-tập được tiến hóa, tâm người ấy càng mát-mẽ thanh-tịnh, đồng thời ước muốn nỗ lực thực-hành thiền Chỉ hay thiền Quán cho đến khi thành đạt mục-đích thoát khỏi luân-hồi khổ được gia tăng. Việc làm sanh-khởi hai loại ước muốn: thành-đạt trong thiền Chỉ hay thành-đạt trong thiền Quán, là tùy thuộc vào sự phát-triển của năm quyền nhất là tín-quyền.
Khi không tu-tập năm quyền thì loại ước muốn trên biến mất, thay vào đó là "ước muốn đình chỉ tu-tập".
Khi năm quyền được vững mạnh, ước muốn tu-tập được thay thế bằng "ước muốn được tấn hóa", khi năm quyền được sung-mãn thì "ước muốn thành-đạt đạo-quả" xuất hiện.
Và đức Phật có dạy rằng:
-Này chư tỳ-khưu! với sự viên-mãn năm quyền là bậc A-la-hán yếu nhẹ hơn là bậc Bất-hoàn (anāgāmi). Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất-lai, yếu nhẹ hơn là bậc Dự-lưu. Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy pháp-hành. Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy tín-hành. (Tương-ưng kinh).
(Hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh