2021-12-07, 05:14 PM
Văn Chương Việt Nam có gì mà phải đọc!
“Có ai đi xa mà không thương nhớ về quê nhà”, nhưng không có nhớ thương nào bằng thương nhớ về văn chương Việt Nam! Niềm thương, nổi nhớ đó thật sự làm cho tôi sửng sờ và ngạc nhiên khi tôi tình cờ đọc được một câu hỏi của một cô bé được sinh ra và lớn lên tại Mỹ: “Văn Chương Việt Nam Có Gì Đâu Mà Phải Đọc!” Trước hết, tôi rất vui là em muốn tìm hiểu về tiếng Việt, ngôn ngữ của ông bà và ba mẹ của em!
Tôi đã được qua Mỹ và sinh sống tại đây gần 30 năm, đó cũng là một thời gian khá dài từ khi tôi rời Việt Nam khi tôi được 16 tuổi. Tuy còn nhỏ thời đó, tôi thực sự chưa được đọc nhiều về những tác phẩm lớn của văn chương Việt Nam, tôi cũng chưa thuộc lắm những câu ca dao, những câu hát dân gian thắm đượm tình dân tộc, tình đồng bào, tình mẫu tử hay tình bạn hữu...những lời thơ ca ngợi cảnh đẹp của quê hương như: một lũy tre làng trong sương sớm, những cánh cò trắng bay lượn trên những cánh đồng lúa chín vàng, làn khói lam chiều trên những mái nhà tranh, cây đa đầu làng, con đò nằm bên bến vắng, nhịp cầu tre lắc lẻo, con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, với những đêm trăng ướt lá dừa, tiếng nghé ngọ mỗi chiều về vi vi tiếng sáo diều...văn chương Việt Nam mình rất sâu sắc, ý nhị và dễ thương vô cùng!
Có bao giờ chúng ta có thể hình dung ra được hình ảnh của một cô gái lái đò trên sông với giọng hò thoang thoảng:
“Thuyền ai lơ lững bên sông
Có lòng đợi khách hay không hở thuyền?”
Hay là:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ cuối được trích ra từ bài thơ nổi tiếng của Hàn Mạc Tử “Đây Thôn Vỹ Dạ”. Thơ của Hàn Mặc Tử đúng là thơ trữ tình và luôn chứa đựng nổi lòng ngỡ ngàng, bâng khuâng, “thuyền ai” gợi cho chúng ta cảm nhận được sự trách móc, tưởng như quen mà lạ lùng, xa xôi. Con thuyền cô đơn lẽ loi một mình, kiên nhẫn đợi “sông trăng” quả thật là một nét vẽ thơ mộng thật là sống đọng mà Hàn Mặc Tử muốn nhắn gởi cho chúng ta...
Hay nói đến tình nghĩa sâu đậm của một đôi vợ chồng trẻ tuy cực khổ nhưng vẫn gắn bó keo sơn:
“Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm ra ván nát, thuyền thì long đanh
Đôi ta lên thác xuống ghềnh
Em ra đứng mũi để anh chịu sào!”
Và còn nữa:
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem đi nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau!”
Những đêm trăng của quê nhà không thể thiếu được giọng hò của các cô thôn nữ:
“Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời”
Và lời đối đáp của các trai làng:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Hay là:
“Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương”
“Qua cầu ngã nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu”
Mỗi người Việt Nam chúng ta nếu được sinh ra và lớn lên ở quê hương, đều có diễm phúc nghe lời ru của mẹ, lời ru mang những điệu thơ ca:
“Sông sâu cá lội biệt tăm
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ
Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ
Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa đào...”
Riêng tôi, sau ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975, Ba tôi bị cộng sản Bắc Việt đưa vào cái trại tù khắc nghiệt, những lời ru trên của mẹ, dù là một đứa trẻ năm, sáu tuổi, tôi vẫn cảm nhận được cái hay của văn chương Việt Nam, cảm giác được vùi mặt vào lòng mẹ để thấy những giọt nước mắt của mẹ thấm vào tóc mình. Tôi cảm nhận được nỗi khốn đốn khi vắng ba, mẹ tôi một mình tảo tần:
“Thân cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Hay:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”
Đổi lại “lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” như vậy, thì các con cũng phải:
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Trong kho tàng văn thơ truyền miệng từ ngàn xưa để lại đã tạo nên một mảng lớn sáng ngời, trước vẻ đẹp đó, chúng ta phải trở về nguồn, tìm lại được cái sâu sắc, cái tế nhị. Và còn nữa, những bản tình ca lớn như: “Cung Oán Ngâm Khúc, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm” mà mỗi người Việt Nam chúng ta đều hãnh diện, tôi thích nhất những vần thơ tả cảnh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bên cạnh đó, Chinh Phụ Ngâm là một tác phẩm viết vào thời hoàng kim của Nho Giáo, nghĩa là lúc tình yêu không mấy được ca tụng như ngày nay. Nhưng ta xem Đặng Trần Côn qua ngòi bút dịch Việt Ngữ của bà Đoàn Thị Điểm tình yêu nó ngọt ngào và trung thực biết bao?
'Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Quá đơn sơ và thật thà nhưng là cả một sự đồng cảm tuyệt vời vượt cả không gian và thời gian. Mà đồng cảm chính là nền tảng chân thật nhất của tình yêu. Đồng cảm là chân lý của tình yêu...
Có bao giờ bạn tự hỏi mình tại sao người Việt Nam chúng ta thường hay treo những tấm tranh trong nhà như “Mai Lan Cúc Trúc” hay “Ngư Tiều Canh Mục” không? Đó là những tấm hình rất đẹp không những chúng ta dùng để trang trí trong nhà nhưng quan trọng hơn hết, những tấm hình này có giá trị văn hóa dân gian rất quan trọng.
Trước hết, tại sao lại là “Mai Lan Cúc Trúc”? Không biết tự khi nào hình ảnh của Mai Lan Cúc Trúc gắn liền với văn hoá của người Việt chúng ta? Vậy theo triết lý Đông Phương, giữ người Trung Quốc và Việt Nam, ai là người khởi xướng ra hình ảnh của bốn loại hoa này? Nếu quý vị để ý, những bức tranh thời cổ xưa của Trung Quốc không bao giờ có hoa Mai, chỉ là hoa Đào mà thôi! Trung Quốc là một xứ sở lạnh lẻo, cho nên chỉ có hoa Đào mới có thể sinh sống được, cho nên, đây là một minh chứng thỏa đáng để cho chúng ta biết chút về nguồn gốc của tấm hình của bốn loại hoa rất được trân quý trong gia đình Việt Nam của chúng ta! Đây là sự kết hợp hài hòa của ông cha ta và nó có ý nghĩa rất thâm thuý! Bức tranh này đã cho ta thấy được cả một vận hành của thiên nhiên trời đất với bốn mùa rõ rệt! Mọi thứ trong đời đều do cái thời mà quyện lấy nhau. Sự vô thường của thời gian được gởi gắm qua hình ảnh của Mai Lan Cúc Trúc:
“Xuân Sinh Hạ Trưởng Thu Liễm Đông Tàn”
Có nghĩa là hoa Mai vào mùa Xuân sẽ đâm chồi nảy lộc, hoa nở rất đẹp, nhưng qua mùa hạ thì trưởng thành, mọc lá sum xuê, nhưng đến mùa thu và đông thì tàn đi, nhưng không bao giờ chết, nó chỉ chờ thời để rồi lại sống dậy lên, theo luật của thời thế để chuyển mình rồi lại vươn lên! Hình ảnh của hoa Mai được ví như một vị anh hùng! Anh và hùng là hai loại hoa rất đẹp! Nó nói lên tiết tháo khí phách của một người quân tử “ẩn nhẫn chờ thời”! Khi người quân tử không gặp đúng thời thế thì họ sẽ ẩn tàn, kham nhẫn chờ đợi, học hành tôi luyện để đợi đúng thời đúng thế mà hành động!
Nhắc nhở đến bốn màu Xuân Hạ Thu Đông, chúng ta không thể nào quên Lan. Lan là một loại hoa rất đẹp và thu hút, ai thấy Lan mà chẳng yêu?
Người xưa có câu:
“Lan chi vu thâm lâm
Bất nhĩ vô nhân chi bất hương”
Như hoa Lan, dù ở rừng sâu, núi thẳm, không ai lui tới, nhưng hoa vẫn không mất hương thơm và vẻ đẹp của mình. Tựa như một người quân tử, luôn tự tại, luôn tự sửa mình, có tài chẳng cần khoe, ai khen ai chê cũng chẳng màng, lại càng không có chuyện được người khen kẻ chê mà lại mất hương! Người đẹp cũng giống như hoa Lan, nếu không biết giữ đức độ mà chôn vùi nơi chốn lầu xanh, sống sa đọa thì đó là một sự thê thảm của đóa hoa! Quả nhiên là như vậy, người quân tử sống trong cuộc đời này là phải biết tu đạo, tự sửa mình và hành động tạo đức độ để cứu nhân độ thế, cứu những người bất hạnh hơn mình!
“Quân tử tu đạo lập đức
Bất dĩ khốn cùng di cải tiết”
Khi nói về Cúc, chúng ta liền nghĩ về mùa Thu, mùa thu khi vạn vật suy tàn, gió thổi làm úa tàn cây cỏ, hầu như tất cả không có gì nở hoa độc nhất cây hoa Cúc! trong cái tàn tạ của trời đất, của vạn vật thì Cúc lại nở ra những đóa hoa tuyệt đẹp! Làm cho chúng ta nghĩ tới những vị anh hùng, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nào, nhưng họ vẫn vượt qua số phận mà vươn lên! Không có gì làm cho họ bị chùn bước!
Khi nói về Trúc, chúng ta lại nghĩ đến mùa Đông lạnh lẻo! Tiết trời mùa đông giá rét nhưng Trúc không bao giờ chết, Trúc tuy khẳng khiu nhưng luôn đứng thẳng mình, và có một điểm đặc biệt về Trúc là thân cây trống rỗng bên trong! Điều này nói lên sự vô tâm của cây Trúc và vô tâm ở đây không có nghĩa là không để tâm đến ai hết hay vô tình nhưng vô tâm này có nghĩa là bụng dạ không chứa thị phi trong cuộc sống! Đó là tính cách rất cần thiết của một vị quân tử!
Mai Lan Cúc Trúc không những có nét đẹp riêng biệt của từng loại nhưng thật ra, đó là một liên kết hài hoà, đại diện cho một người quân tử luôn tu tâm dưỡng tính, không khoe khoang, không màu mè và khi thời cơ đến, họ sẽ hành động để cứu đời, cứu người thoát khỏi cảnh bi oan của xã hội.
Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của bốn câu “Ngư Tiều Canh Mục (hay Độc) nhé!
Hình ảnh Ngư, Tiều, Canh, Mục đã in sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Để hiểu một cách đơn giản, Lão Ngư là người đi biển đánh bắt cá; Lão Tiều là người đốn củi; Lão “Canh” là một người làm nông chăm chỉ cầy cấy và cuối cùng là Lão Mục (hay Độc) là một người cần cù chăn trâu. Thoạt nhìn, bốn bức vẽ này nói lên vẻ đẹp mộc mạc của người dân Việt Nam từ thời xa xưa, mỗi bức tranh mang vẻ đẹp đơn giản , bình dị nơi thôn dã nhưng lại rất gần gũi trong tâm khảm của mỗi chúng ta! Từ thời xa xưa, cảnh đồng quê luôn gắn liền với lịch sử của dân tộc, tuy nhiên, muốn hiểu xa hơn, Ngư Tiều Canh Mục thực sự là một kết hợp chặt chẽ về Quân Sự (Ngư); Tình Báo Gián Điệp (Tiều); Kinh Tế Thương Mãi (Canh) và Chính Sách Quốc Gia (Mục hay Độc)! Lịch sử chống giặc ngoại xâm của cha ông ta luôn gắn liền với các địa danh lịch sử. Trong đó không thể nhắc tới dòng sông Bạch Đằng với 3 cuộc chiến khác nhau. Từ năm 938 do Vua Ngô Quyền lãnh đạo, đến năm 982 với các trận Chi Lăng, Lục Đầu và Bình Lỗ đã làm cho quân Tống bị tiêu hoá một lực lượng lớn về sinh lực cũng như vũ khí và cuối cùng là trận đánh hào hùng của Tướng Trần Hưng Đạo đại thắng quân Nguyên đem lại thái bình cho Đất Việt! Cho nên, Lão Ngư này tượng trưng cho một vị hiểu viết về địa lý của nước Việt, âm tường về quân sự để giữ vững an bình cho dân tộc! Lão Tiều là một vị am tường về rừng sâu núi thẩm! Không chỉ đơn giản là một người đi đốn củi trên rừng, nhưng quan trọng là dò thám, chọn lựa địa thế, chọn đúng loại gỗ nào tốt nhất, chắc chắn nhất để đem về! Nếu chọn nhằm cây gỗ mục nát thì mọi việc sẽ hỏng hết!
Trong thời chiến cũng như thời bình, lương thực luôn quan trọng để giữ vững một quốc gia, một chế độ, mọi người dân phải được no ấm cho nên Canh ở đây cần phải được nhấn mạnh và nhắc tới-một quốc gia thịnh vượng chắc chắn phải có nền kinh tế thương mại vững chắc! Cuối cùng là Lão Mục (hay Độc) được nhắc tới như một vị học giả với một vốn kiến thức không ai bằng (chăn trâu thì rất rảnh, cho nên chỉ như “con mọt sách”, lúc nào cũng đọc, vị này am tường về chính sách quốc gia! Sẽ vạch ra những chiến lược quan trọng, kết hợp chặt chẽ với ba vị kia để giữ vững bờ cõi!
Văn chương Việt Nam thật là phong phú và sinh động vô cùng! Ai nói văn chương Việt nhà quê họ cứ nói, nhưng với tôi, nó là một phần tuyệt vời của nền văn chương nhân loại. Tôi mong rằng, những lúc rảnh rỗi, các bạn trẻ sẽ tìm đọc những áng văn thơ Việt Nam, chúng ta phải hãnh diện là dòng dõi “Con Rồng Cháu Tiên”, được hãnh diện với bốn ngàn năm văn hiến, hãy trở về với cội nguồn thân thương của mình! Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ gìn và duy trì nền văn hoá lâu đời của dân tộc và không thể nào để nó mất đi!
Cao Xuân Thanh Ngọc
...
Đường xưa lối cũ có bóng tre, bóng tre che thôn nghèo
Đường xưa lối cũ có ánh trăng, ánh trăng soi đường đi
Đường xưa lối cũ có tiếng ca, tiếng ca trên sông dài
Đường xưa lối cũ có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru hồn ai
“Có ai đi xa mà không thương nhớ về quê nhà”, nhưng không có nhớ thương nào bằng thương nhớ về văn chương Việt Nam! Niềm thương, nổi nhớ đó thật sự làm cho tôi sửng sờ và ngạc nhiên khi tôi tình cờ đọc được một câu hỏi của một cô bé được sinh ra và lớn lên tại Mỹ: “Văn Chương Việt Nam Có Gì Đâu Mà Phải Đọc!” Trước hết, tôi rất vui là em muốn tìm hiểu về tiếng Việt, ngôn ngữ của ông bà và ba mẹ của em!
Tôi đã được qua Mỹ và sinh sống tại đây gần 30 năm, đó cũng là một thời gian khá dài từ khi tôi rời Việt Nam khi tôi được 16 tuổi. Tuy còn nhỏ thời đó, tôi thực sự chưa được đọc nhiều về những tác phẩm lớn của văn chương Việt Nam, tôi cũng chưa thuộc lắm những câu ca dao, những câu hát dân gian thắm đượm tình dân tộc, tình đồng bào, tình mẫu tử hay tình bạn hữu...những lời thơ ca ngợi cảnh đẹp của quê hương như: một lũy tre làng trong sương sớm, những cánh cò trắng bay lượn trên những cánh đồng lúa chín vàng, làn khói lam chiều trên những mái nhà tranh, cây đa đầu làng, con đò nằm bên bến vắng, nhịp cầu tre lắc lẻo, con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, với những đêm trăng ướt lá dừa, tiếng nghé ngọ mỗi chiều về vi vi tiếng sáo diều...văn chương Việt Nam mình rất sâu sắc, ý nhị và dễ thương vô cùng!
Có bao giờ chúng ta có thể hình dung ra được hình ảnh của một cô gái lái đò trên sông với giọng hò thoang thoảng:
“Thuyền ai lơ lững bên sông
Có lòng đợi khách hay không hở thuyền?”
Hay là:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ cuối được trích ra từ bài thơ nổi tiếng của Hàn Mạc Tử “Đây Thôn Vỹ Dạ”. Thơ của Hàn Mặc Tử đúng là thơ trữ tình và luôn chứa đựng nổi lòng ngỡ ngàng, bâng khuâng, “thuyền ai” gợi cho chúng ta cảm nhận được sự trách móc, tưởng như quen mà lạ lùng, xa xôi. Con thuyền cô đơn lẽ loi một mình, kiên nhẫn đợi “sông trăng” quả thật là một nét vẽ thơ mộng thật là sống đọng mà Hàn Mặc Tử muốn nhắn gởi cho chúng ta...
Hay nói đến tình nghĩa sâu đậm của một đôi vợ chồng trẻ tuy cực khổ nhưng vẫn gắn bó keo sơn:
“Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm ra ván nát, thuyền thì long đanh
Đôi ta lên thác xuống ghềnh
Em ra đứng mũi để anh chịu sào!”
Và còn nữa:
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem đi nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau!”
Những đêm trăng của quê nhà không thể thiếu được giọng hò của các cô thôn nữ:
“Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời”
Và lời đối đáp của các trai làng:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Hay là:
“Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương”
“Qua cầu ngã nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu”
Mỗi người Việt Nam chúng ta nếu được sinh ra và lớn lên ở quê hương, đều có diễm phúc nghe lời ru của mẹ, lời ru mang những điệu thơ ca:
“Sông sâu cá lội biệt tăm
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ
Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ
Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa đào...”
Riêng tôi, sau ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975, Ba tôi bị cộng sản Bắc Việt đưa vào cái trại tù khắc nghiệt, những lời ru trên của mẹ, dù là một đứa trẻ năm, sáu tuổi, tôi vẫn cảm nhận được cái hay của văn chương Việt Nam, cảm giác được vùi mặt vào lòng mẹ để thấy những giọt nước mắt của mẹ thấm vào tóc mình. Tôi cảm nhận được nỗi khốn đốn khi vắng ba, mẹ tôi một mình tảo tần:
“Thân cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Hay:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”
Đổi lại “lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào” như vậy, thì các con cũng phải:
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Trong kho tàng văn thơ truyền miệng từ ngàn xưa để lại đã tạo nên một mảng lớn sáng ngời, trước vẻ đẹp đó, chúng ta phải trở về nguồn, tìm lại được cái sâu sắc, cái tế nhị. Và còn nữa, những bản tình ca lớn như: “Cung Oán Ngâm Khúc, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm” mà mỗi người Việt Nam chúng ta đều hãnh diện, tôi thích nhất những vần thơ tả cảnh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bên cạnh đó, Chinh Phụ Ngâm là một tác phẩm viết vào thời hoàng kim của Nho Giáo, nghĩa là lúc tình yêu không mấy được ca tụng như ngày nay. Nhưng ta xem Đặng Trần Côn qua ngòi bút dịch Việt Ngữ của bà Đoàn Thị Điểm tình yêu nó ngọt ngào và trung thực biết bao?
'Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Quá đơn sơ và thật thà nhưng là cả một sự đồng cảm tuyệt vời vượt cả không gian và thời gian. Mà đồng cảm chính là nền tảng chân thật nhất của tình yêu. Đồng cảm là chân lý của tình yêu...
Có bao giờ bạn tự hỏi mình tại sao người Việt Nam chúng ta thường hay treo những tấm tranh trong nhà như “Mai Lan Cúc Trúc” hay “Ngư Tiều Canh Mục” không? Đó là những tấm hình rất đẹp không những chúng ta dùng để trang trí trong nhà nhưng quan trọng hơn hết, những tấm hình này có giá trị văn hóa dân gian rất quan trọng.
Trước hết, tại sao lại là “Mai Lan Cúc Trúc”? Không biết tự khi nào hình ảnh của Mai Lan Cúc Trúc gắn liền với văn hoá của người Việt chúng ta? Vậy theo triết lý Đông Phương, giữ người Trung Quốc và Việt Nam, ai là người khởi xướng ra hình ảnh của bốn loại hoa này? Nếu quý vị để ý, những bức tranh thời cổ xưa của Trung Quốc không bao giờ có hoa Mai, chỉ là hoa Đào mà thôi! Trung Quốc là một xứ sở lạnh lẻo, cho nên chỉ có hoa Đào mới có thể sinh sống được, cho nên, đây là một minh chứng thỏa đáng để cho chúng ta biết chút về nguồn gốc của tấm hình của bốn loại hoa rất được trân quý trong gia đình Việt Nam của chúng ta! Đây là sự kết hợp hài hòa của ông cha ta và nó có ý nghĩa rất thâm thuý! Bức tranh này đã cho ta thấy được cả một vận hành của thiên nhiên trời đất với bốn mùa rõ rệt! Mọi thứ trong đời đều do cái thời mà quyện lấy nhau. Sự vô thường của thời gian được gởi gắm qua hình ảnh của Mai Lan Cúc Trúc:
“Xuân Sinh Hạ Trưởng Thu Liễm Đông Tàn”
Có nghĩa là hoa Mai vào mùa Xuân sẽ đâm chồi nảy lộc, hoa nở rất đẹp, nhưng qua mùa hạ thì trưởng thành, mọc lá sum xuê, nhưng đến mùa thu và đông thì tàn đi, nhưng không bao giờ chết, nó chỉ chờ thời để rồi lại sống dậy lên, theo luật của thời thế để chuyển mình rồi lại vươn lên! Hình ảnh của hoa Mai được ví như một vị anh hùng! Anh và hùng là hai loại hoa rất đẹp! Nó nói lên tiết tháo khí phách của một người quân tử “ẩn nhẫn chờ thời”! Khi người quân tử không gặp đúng thời thế thì họ sẽ ẩn tàn, kham nhẫn chờ đợi, học hành tôi luyện để đợi đúng thời đúng thế mà hành động!
Nhắc nhở đến bốn màu Xuân Hạ Thu Đông, chúng ta không thể nào quên Lan. Lan là một loại hoa rất đẹp và thu hút, ai thấy Lan mà chẳng yêu?
Người xưa có câu:
“Lan chi vu thâm lâm
Bất nhĩ vô nhân chi bất hương”
Như hoa Lan, dù ở rừng sâu, núi thẳm, không ai lui tới, nhưng hoa vẫn không mất hương thơm và vẻ đẹp của mình. Tựa như một người quân tử, luôn tự tại, luôn tự sửa mình, có tài chẳng cần khoe, ai khen ai chê cũng chẳng màng, lại càng không có chuyện được người khen kẻ chê mà lại mất hương! Người đẹp cũng giống như hoa Lan, nếu không biết giữ đức độ mà chôn vùi nơi chốn lầu xanh, sống sa đọa thì đó là một sự thê thảm của đóa hoa! Quả nhiên là như vậy, người quân tử sống trong cuộc đời này là phải biết tu đạo, tự sửa mình và hành động tạo đức độ để cứu nhân độ thế, cứu những người bất hạnh hơn mình!
“Quân tử tu đạo lập đức
Bất dĩ khốn cùng di cải tiết”
Khi nói về Cúc, chúng ta liền nghĩ về mùa Thu, mùa thu khi vạn vật suy tàn, gió thổi làm úa tàn cây cỏ, hầu như tất cả không có gì nở hoa độc nhất cây hoa Cúc! trong cái tàn tạ của trời đất, của vạn vật thì Cúc lại nở ra những đóa hoa tuyệt đẹp! Làm cho chúng ta nghĩ tới những vị anh hùng, dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nào, nhưng họ vẫn vượt qua số phận mà vươn lên! Không có gì làm cho họ bị chùn bước!
Khi nói về Trúc, chúng ta lại nghĩ đến mùa Đông lạnh lẻo! Tiết trời mùa đông giá rét nhưng Trúc không bao giờ chết, Trúc tuy khẳng khiu nhưng luôn đứng thẳng mình, và có một điểm đặc biệt về Trúc là thân cây trống rỗng bên trong! Điều này nói lên sự vô tâm của cây Trúc và vô tâm ở đây không có nghĩa là không để tâm đến ai hết hay vô tình nhưng vô tâm này có nghĩa là bụng dạ không chứa thị phi trong cuộc sống! Đó là tính cách rất cần thiết của một vị quân tử!
Mai Lan Cúc Trúc không những có nét đẹp riêng biệt của từng loại nhưng thật ra, đó là một liên kết hài hoà, đại diện cho một người quân tử luôn tu tâm dưỡng tính, không khoe khoang, không màu mè và khi thời cơ đến, họ sẽ hành động để cứu đời, cứu người thoát khỏi cảnh bi oan của xã hội.
Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của bốn câu “Ngư Tiều Canh Mục (hay Độc) nhé!
Hình ảnh Ngư, Tiều, Canh, Mục đã in sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Để hiểu một cách đơn giản, Lão Ngư là người đi biển đánh bắt cá; Lão Tiều là người đốn củi; Lão “Canh” là một người làm nông chăm chỉ cầy cấy và cuối cùng là Lão Mục (hay Độc) là một người cần cù chăn trâu. Thoạt nhìn, bốn bức vẽ này nói lên vẻ đẹp mộc mạc của người dân Việt Nam từ thời xa xưa, mỗi bức tranh mang vẻ đẹp đơn giản , bình dị nơi thôn dã nhưng lại rất gần gũi trong tâm khảm của mỗi chúng ta! Từ thời xa xưa, cảnh đồng quê luôn gắn liền với lịch sử của dân tộc, tuy nhiên, muốn hiểu xa hơn, Ngư Tiều Canh Mục thực sự là một kết hợp chặt chẽ về Quân Sự (Ngư); Tình Báo Gián Điệp (Tiều); Kinh Tế Thương Mãi (Canh) và Chính Sách Quốc Gia (Mục hay Độc)! Lịch sử chống giặc ngoại xâm của cha ông ta luôn gắn liền với các địa danh lịch sử. Trong đó không thể nhắc tới dòng sông Bạch Đằng với 3 cuộc chiến khác nhau. Từ năm 938 do Vua Ngô Quyền lãnh đạo, đến năm 982 với các trận Chi Lăng, Lục Đầu và Bình Lỗ đã làm cho quân Tống bị tiêu hoá một lực lượng lớn về sinh lực cũng như vũ khí và cuối cùng là trận đánh hào hùng của Tướng Trần Hưng Đạo đại thắng quân Nguyên đem lại thái bình cho Đất Việt! Cho nên, Lão Ngư này tượng trưng cho một vị hiểu viết về địa lý của nước Việt, âm tường về quân sự để giữ vững an bình cho dân tộc! Lão Tiều là một vị am tường về rừng sâu núi thẩm! Không chỉ đơn giản là một người đi đốn củi trên rừng, nhưng quan trọng là dò thám, chọn lựa địa thế, chọn đúng loại gỗ nào tốt nhất, chắc chắn nhất để đem về! Nếu chọn nhằm cây gỗ mục nát thì mọi việc sẽ hỏng hết!
Trong thời chiến cũng như thời bình, lương thực luôn quan trọng để giữ vững một quốc gia, một chế độ, mọi người dân phải được no ấm cho nên Canh ở đây cần phải được nhấn mạnh và nhắc tới-một quốc gia thịnh vượng chắc chắn phải có nền kinh tế thương mại vững chắc! Cuối cùng là Lão Mục (hay Độc) được nhắc tới như một vị học giả với một vốn kiến thức không ai bằng (chăn trâu thì rất rảnh, cho nên chỉ như “con mọt sách”, lúc nào cũng đọc, vị này am tường về chính sách quốc gia! Sẽ vạch ra những chiến lược quan trọng, kết hợp chặt chẽ với ba vị kia để giữ vững bờ cõi!
Văn chương Việt Nam thật là phong phú và sinh động vô cùng! Ai nói văn chương Việt nhà quê họ cứ nói, nhưng với tôi, nó là một phần tuyệt vời của nền văn chương nhân loại. Tôi mong rằng, những lúc rảnh rỗi, các bạn trẻ sẽ tìm đọc những áng văn thơ Việt Nam, chúng ta phải hãnh diện là dòng dõi “Con Rồng Cháu Tiên”, được hãnh diện với bốn ngàn năm văn hiến, hãy trở về với cội nguồn thân thương của mình! Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ gìn và duy trì nền văn hoá lâu đời của dân tộc và không thể nào để nó mất đi!
Cao Xuân Thanh Ngọc
...
Đường xưa lối cũ có bóng tre, bóng tre che thôn nghèo
Đường xưa lối cũ có ánh trăng, ánh trăng soi đường đi
Đường xưa lối cũ có tiếng ca, tiếng ca trên sông dài
Đường xưa lối cũ có tiếng tiêu, tiếng tiêu ru hồn ai
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.


