2021-10-04, 02:11 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng bài Kinh Pháp Môn Căn Bản 2 (3-3)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=93B4E3w9WmY&abt=Ph%C3%A1p+m%C3%B4n+c%C4%83n+b%E1%BA%A3n+2
Thời Đức Phật có một vị tỳ kheo tên là Sunacata, ổng đắc được tới Ngũ thiền Sắc giới, nhưng ổng không an lạc bởi vì ổng tối ngày mơ một chuyện là đắc được thiên nhĩ. Tức là ổng có thần thông ổng biết người trước mặt nghĩ cái gì, ổng thấy chư thiên ở xa thấy hết, thấy miệng nhép nhép mà ổng không nghe ổng tức. Ổng vô gặp Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có nghe được chư thiên nói hay không?”. Ngài nói được. Ổng nói Ngài dạy cho con. Đức Phật nói ‘Không được’ mà không giải thích. Ổng về ổng luyện thêm thêm cuối cùng nghĩ là Ngài giấu nghề, hoặc là Ngài không biết. Tại sao cái gì cũng đắc mà thiên nhĩ ổng không đắc? Là do cái nghiệp ngày xưa ổng làm nghề búng sạn. Ổng bị què không có tiền ổng lấy lá búng hình con này con kia người ta thấy lạ cho tiền. Một bữa có vị Phật Độc Giác đi ngang ổng nghĩ ông thầy chùa này tứ cố vô thân, mình búng thử ông này coi sao. Ông thầy này nghiệp tới nên ổng búng xuyện tai người này chết. Búng xong rồi ngài không nói gì hết. Ngài biết là nó đã xuyên qua rồi. Với cái tâm lực của vị đắc Lục thông, ngài dùng thần thông Tứ thần túc kềm nó về đến núi Ngài mới Niết bàn. Mấy hôm sau dân làng không thấy ngài đi ngang nữa họ nói sao mấy bữa nay sư phụ không xuống nữa. Ổng mới nói làm sao mà xuống nữa, búng một sạn trổ qua tai rồi. Họ nghe vậy đánh ông này chết ngắc. Ổng chết sanh địa ngục, nhiều đời nhiều kiếp sanh ra kiếp nào cũng bị điếc. Cuối cùng gặp Đức Phật, ổng không bị điếc nhưng lại luyện thông không được do bị cái quả dư.
Cho nên trong đường tu của mình bị 10 cái pháp ‘quái’ (là ‘trói buộc’ không phải quái dị). Bị 10 điều trói buộc cái tâm của mình, trong đó là nghĩ về quyến thuộc, nghĩ về đệ tử, về chùa chiền, thần thông, về kiến thức. Mình nghĩ về những cái đó nên không tu tiến được.
Trong bài Kinh này Đức Phật ngài nói rằng: một vị phàm phu dầu có đa văn quảng kiến, nghe nhiều thấy rộng đến mấy nhưng nếu không khéo suy tư theo cách thế của bậc thánh thì vẫn bị chết, bị tù đày ngay trong chính những gì mình học hiểu. Phật Pháp học là để cởi ra, mà mình học là để mình túm vô. Rồi ai mà nói ngược lại với cái biết của mình thì mình bực. Cái đó là không được. Phải cởi ra, phải nghĩ rằng tại người ta không có duyên học, mà mình có duyên, thôi được rồi, chỉ vậy thôi. Nếu nói rằng người biết mà bực mình với người không biết vậy thì các vị ở cõi trời họ nhìn mình họ còn bực nữa. Bởi họ biết còn nhiều hơn mình nữa. Các vị biết Phật Pháp cõi người bây giờ nó rất yếu, chớ trong Kinh nói cõi trời bây giờ Phật Pháp rất là mạnh. Bởi 100 năm ở cõi người bằng một ngày đêm ở Đao Lợi. Mà Đức Phật ngài mới Niết bàn hơn 2.500 năm thì coi như ở trển mới hai mươi mấy ngày thôi. Có nghĩa là những vị đệ tử Đức Phật ở cõi người, chư tăng, cư sĩ thời Đức Phật chết sanh về cõi trời rất là nhiều. Trong đó có những vị thuộc nằm lòng năm tạng như rừng vậy đó, trùng trùng điệp điệp. Rồi họ nghĩ về mình làm sao? Mình ở đây học ba mớ gặp cái người hỏng biết thì coi thường. Vậy thì những vị trên đó họ coi thường mình mình chịu không?
Những đêm hôm tôi buồn quá, lẻ loi, cô độc quá, tôi nghĩ chư Phật tương lai thiếu gì, tại mình không thấy thôi. Mình nghĩ vậy mình đỡ lẻ loi. Nhiều khi mình có tâm nguyện phục vụ chúng sanh, hoặc cái gì đó mà thấy sao muốn làm mà mình bị khó khăn, bị trở ngại, đời không tri kỷ ‘Chỉ ta ta biết lòng ta ta hay’. Rồi ‘Nam nhi sự nghiệp ư hồ thủy. Hà tất cùng sầu đối cỏ cây’. Mình buồn, sanh ra hỏng ai hiểu mình hết: ‘Sanh bất phùng thời, sanh thời mạt Pháp’... Nhưng tại mình không chịu nghĩ xa, là thiện hữu thiện lữ trong tam giới này nhiều, chư Phật tương lai bây giờ đầy dẫy trong vũ trụ. Mà những người trước mặt mình, những người mình ghét nhứt bây giờ lại là những vị Phật tương lai, mà mình đã không biết mấy chuyện đó. Cho nên mình nghĩ vậy mình sẽ không cô đơn. Phải nói là ngay trong mấy chục năm trở lại đây không có ai bằng ông Gandhi nữa. Nhưng mà điều đó không có nghĩa là không bao giờ không có.
Hiện giờ có thể trong tương lai nhân loại sẽ có những Gandhi, những Lincoln mà bây giờ họ đang là những đứa bé ở trần ở truồng chạy đâu đó ở châu Á mà mình không biết. Tôi nhớ hồi đó có lần tôi đi với sư cậu về Trà Vinh, vô cái sóc Miên. Giác chiều mát mát hai cậu cháu đi lang thang, gặp mấy đứa con nít chăn trâu người Miên nó đen thui tóc quăn mà đen thui, người đất không, nó chạy đuổi trâu đi. Sư cậu tôi nói “Giác Nguyên nhìn tụi nó biết sư nghĩ gì không. Nhìn mấy đứa con nít vậy chớ Pháp sư không đó”. Thiệt người Miên đứa nít nào cũng tu hết. Nó hay lắm. Mình đang đi, đàn bà con gái mà đang chạy xe đạp, gặp mình từ xa xuống xe nép qua một bên lấy nón đứng che cúi xuống vầy nè cho mình đi qua, không có cho mình nhìn mặt đâu. Lễ phép! Còn họ thân thì ‘lục...’ ‘sư cậu’, ‘sư huynh’ không hà, kêu vậy đó. Còn con nít mười, mười hai tuổi ở trần ở truồng chạy ngời ngời ở ngoài đồng. Mà đồng khô hết nước nứt nẻ, mà chạy ngời ngời trên đó. Mình mẩy nó hôi, khét tanh, tay bắt cá bắt cào cào nó chơi. Nhưng chỉ cần nó bước vô chùa nó ngồi chồm hổm là nó đọc Pali rót rót. Còn người lớn tuổi thì vui lắm, hút thuốc mà vô chánh điện cũng hút. Muốn đảnh lễ thì nó để điếu thuốc trên nền, rồi ảnh quỳ ảnh lạy. Lạy mà cái đầu ảnh cách mặt đất cả cây số. Lạy xong lấy điếu thuốc ra ngậm tiếp ngồi nghe thuyết Pháp. Cái nhà của họ trống trước trống sau, bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu công sức của họ đổ hết về chùa. Tất cả các ngôi chùa Miên đều có lịch sử giống nhau. Là ngày xưa họ mời ở đâu bên Miên về một ông sư về ở đó. Cùng nhau họ đắp giữa đồng thành một cái gò, cất cái nhà lá lên cho ông sư ở. Ngày ngày đem cơm cho ông sư ăn. Rồi lâu ngày dài tháng, qua những mùa lúa mới chung đậu tiền bạc nhau lại đắp nền chùa. Chùa Miên nào cũng có ao rộng là tại nó lấy đất ở dưới lên đắp nền chùa. Đàn bà con nít, người già người trẻ đều có cái gánh, gánh kẽo kẹt đổ đất, gánh vậy ba năm thì được nền chùa lớn. Ban ngày nó đi làm đồng, làm rẫy làm ruộng, bắt cá bán. Chiều về trước khi đi tắm lấy quang lấy gánh ra gánh, ba năm như vậy. Mấy sư nói chùa nào cũng vậy hết, ba năm là xong cái nền. Mà vui lắm, sư nói cái cục đất bao lớn vầy nè, gánh ba năm thì thành cái núi chớ hỏng phải cái nhà nữa, cả trăm người mà. Vậy là xong cái chùa. Thương họ lắm! Hỏi họ, họ nói hai lý do tại sao họ tốt với chùa. Một, họ nói sống đây nhiều lắm 70 năm, mà những gì mình làm mình hưởng mấy triệu năm. Họ có niềm tin như vậy. Họ tin nhiều đời, ông nội họ tin như vậy, ông cố họ tin như vậy, ba họ, má họ, anh họ tin như vậy, tới họ họ cũng tin luôn. Đốt họ ra tro họ cũng tin như vậy.
Bị trói buộc tức là khi họ chứng cái đó, nếu không khéo nó thành cái gánh nặng cho họ. Và tất cả những gì mình có hôm nay, hạnh phúc của mình cũng do mình ngộ nhận mà ra. Cái đau khổ mình cũng do ngộ nhận mà ra. Tôi phải nói rõ là tôi rất xấu hổ khi tôi phải trình bày những cái tôi hiểu mà khi tôi làm chưa có hết. Phải nói một phần lý do là, Đức Phật ngài nói đối với các dục có 5 cái cần phải thấy.’Dục’ là những cái làm cho mình enjoy. Ngài nói: “Ta không phủ nhận cuộc đời nó có vị ngọt. Nhưng ta cũng muốn các vị tỳ kheo hiểu rằng bên cạnh các vị ngọt, chuyện đời nó cũng có cái vị đắng.
Vị tỳ kheo thấy được
Hồi đó tôi không hiểu tôi nói Đức Phật chỉ cần nói cuộc đời này là khổ thôi chớ cần gì Ngài phải nói cuộc đời này có vị ngọt. Mà không phải. Ngài nói một người mà không thấy được cuộc đời này có vị ngọt thì lỡ bữa nào gặp vị ngọt là chết. Mình không thấy bữa nào thấy là mình chết, cho nên phải thấy cái vị ngọt đó. Nhưng cũng biết rằng vị ngọt của nó là vô thường, mà vị đắng cuộc đời là đáng sợ. Mà khi thấy được cái ngọt là vô thường, cái đắng là đáng sợ thì mình mới đi đến tâm trạng thứ ba là ly tham. Từ ly tham đi đến cái yểm ly (xa lánh nó). Từ xa lánh mới đi đến giải thoát. Đó là 5 giai đoạn cần có ở một vị tỳ kheo sống giữa cuộc đời phức tạp này. Giáo Pháp Đức Phật không có phân biệt với cư sĩ. Cái gì chư tăng thấy thì cư sĩ cũng phải thấy như vậy. Bởi đạo quả Niết bàn của một vị tu sĩ với đạo quả Niết bàn của một người cư sĩ không khác nhau. Nên mình nói tất cả Phật tử đều phải như vậy.
Đối với Niết bàn, tại sao hôm nay mình bàn cãi nhau quá nhiều, Phật giáo Bắc Tông đề nghị Phật tử hãy nghĩ đến Tây Phương cực lạc, còn bên Nam Tông thì nói đến Niết bàn, vì sao? Phải nói rõ là chúng ta đang bị mắc trong cái ngộ nhận của phàm phu. Có một bài Kinh tôi nhớ trong một đêm đầu đà ở VN, anh Phật tử hỏi tôi, tôi đem bài Kinh đó ra nói, anh Phật tử nói “Chúng con đến chùa học hỏi bằng thiện chí mà con không ngờ sư Giác Nguyên nói nặng chúng con như vậy”. Thì sư cậu ngồi đó sư cậu nói: “Không, về điểm này thì Sư có thể xác định với chúng cái đó là sư Giác nguyên trích dẫn trong Kinh chớ không phải lời của sư Giác Nguyên”. Bữa đó tôi trích dẫn bài Kinh Đức Phật nói giống như con chó nó bị người ta cột vô chỗ nào thì nó có cắn, có quào, có sủa, có la thì nó cũng lòng vòng trong đó thôi.
Thì phàm phu mình giờ có học nhiều bao nhiêu, biết nhiều bao nhiêu thì tất thảy những cái đó cũng không thoát được cái đó. Cho nên bây giờ mình thắc mắc ấm ức: ‘Tu bây giờ mệt muốn chết luôn, vượt qua cám dỗ cũng mệt, mà vượt qua thử thách cũng mệt, để rồi cuối cùng cái cứu cánh nó chỉ là chấm dứt hết, hỏng có cái gì hết. Vậy thì kỳ quá! Ít ra mình cũng về cái cõi nào đó có ao báu công đức, chim nói Pháp, gió thổi ra tiếng nhạc, chung quanh là ngọc ngà, rồi có chư Phật, có thánh chúng, có Liên hoa cửu phẩm. Rồi ai tu ít ở tầng thấp nhất. Ai tu cao ở tầng cao cao, rồi từ trong bông nở ra, mình bước vô hội chúng của Phật, sống đời đời kiếp kiếp không bị chết mới vui. Có gì đâu rồi lục căn mất tiêu, không còn gì hết!’
Nhưng có điều tại sao có người họ muốn như vậy? Là bởi vì họ thấy rằng ngày nào còn lục căn là ngày đó còn khổ. Tại sao mình mơ được sanh về cực lạc? Là bởi mình chưa thấy cái khổ thực sự của sự hiện diện ngũ uẩn, lục căn. Chớ nếu mình thấy thật sự thì mình không nắm nữa. Với cuộc đời này mình phải ‘mê’ mới giữ được nó. Chớ khi mình ‘tỉnh’ mình không cách gì giữ nó. Tôi nhớ sư cậu tôi có nhiều câu đùa mà tôi nhớ hoài. Sư nói: “Phải nói cũng hên, thánh A la hán không còn sanh tử, chớ nếu tâm hồn vậy mà kêu sống ở cõi đời thì sống bằng cái gì. Bởi vì không tìm ra được cái gì để mà enjoy hết”.
Một người muốn Niết bàn là sao? Trong Kinh nói, một hình ảnh mà tôi cho là hình ảnh này đáng để ghi nhớ.
Thời Đức Phật có một quan đại thần ổng mê một cô vũ nữ, giống như Hán Vũ Đế mà mê triệu Phi Yến có đôi chân nhỏ. Ổng mê cô vũ nữ này có cái eo nhỏ. Ổng khen hoài, nói ta thương nàng ở cái eo đẹp quá đi. Nàng nghe nàng khoái nên không dám ăn nhiều. Bữa đó nàng múa múa rồi chết trên sàn nhảy, xỉu rồi nó đi luôn. Ông này đau khổ quá, đi phất phơ thất thểu. Lúc đó Đức Phật đang đi bát, đi ngang Ngài nói: “Không lửa nào bằng lửa tham dục. Không đau khổ nào bằng đau khổ đi ra từ tham dục. Ai không còn tham dục người đó không còn bị đau khổ”.
Ổng nghe xong ổng đắc A la hán luôn.
Tôi muốn nói một chuyện.Tôi hy vọng lớp học mình cứ học Phật Pháp sẽ có lúc quí vị đạt được cái này. Lúc các vị nghe tôi nói, đọc trong Kinh thì không thấm. Mà lúc tự mình mình đụng thì tự nhiên nó thấm. Cái thấm đó là cái thấm của trí Tư. Nếu cái duyên nó đủ nữa thì nó không còn trí Tư nữa mà nó thành trí Tu. Còn bây giờ các vị vô lớp nghe tôi giảng thì dầu cho tôi có thuyết phục các vị được bao nhiêu đi nữa thì chỉ là trí Văn thôi.
Nhưng sẽ có lúc các vị thấm, thấm đã lắm.
Thí dụ trong Kinh nói: “Các pháp hữu vi là vô thường, là khổ vô ngã. Đời này cái gì có sanh ra là có mất đi”. Ai học giáo lý căn bản đều biết những câu đó. Nhưng kêu mình lấy cái hiểu để giác ngộ thì khó./.
(Hết)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=93B4E3w9WmY&abt=Ph%C3%A1p+m%C3%B4n+c%C4%83n+b%E1%BA%A3n+2
Thời Đức Phật có một vị tỳ kheo tên là Sunacata, ổng đắc được tới Ngũ thiền Sắc giới, nhưng ổng không an lạc bởi vì ổng tối ngày mơ một chuyện là đắc được thiên nhĩ. Tức là ổng có thần thông ổng biết người trước mặt nghĩ cái gì, ổng thấy chư thiên ở xa thấy hết, thấy miệng nhép nhép mà ổng không nghe ổng tức. Ổng vô gặp Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có nghe được chư thiên nói hay không?”. Ngài nói được. Ổng nói Ngài dạy cho con. Đức Phật nói ‘Không được’ mà không giải thích. Ổng về ổng luyện thêm thêm cuối cùng nghĩ là Ngài giấu nghề, hoặc là Ngài không biết. Tại sao cái gì cũng đắc mà thiên nhĩ ổng không đắc? Là do cái nghiệp ngày xưa ổng làm nghề búng sạn. Ổng bị què không có tiền ổng lấy lá búng hình con này con kia người ta thấy lạ cho tiền. Một bữa có vị Phật Độc Giác đi ngang ổng nghĩ ông thầy chùa này tứ cố vô thân, mình búng thử ông này coi sao. Ông thầy này nghiệp tới nên ổng búng xuyện tai người này chết. Búng xong rồi ngài không nói gì hết. Ngài biết là nó đã xuyên qua rồi. Với cái tâm lực của vị đắc Lục thông, ngài dùng thần thông Tứ thần túc kềm nó về đến núi Ngài mới Niết bàn. Mấy hôm sau dân làng không thấy ngài đi ngang nữa họ nói sao mấy bữa nay sư phụ không xuống nữa. Ổng mới nói làm sao mà xuống nữa, búng một sạn trổ qua tai rồi. Họ nghe vậy đánh ông này chết ngắc. Ổng chết sanh địa ngục, nhiều đời nhiều kiếp sanh ra kiếp nào cũng bị điếc. Cuối cùng gặp Đức Phật, ổng không bị điếc nhưng lại luyện thông không được do bị cái quả dư.
Cho nên trong đường tu của mình bị 10 cái pháp ‘quái’ (là ‘trói buộc’ không phải quái dị). Bị 10 điều trói buộc cái tâm của mình, trong đó là nghĩ về quyến thuộc, nghĩ về đệ tử, về chùa chiền, thần thông, về kiến thức. Mình nghĩ về những cái đó nên không tu tiến được.
Trong bài Kinh này Đức Phật ngài nói rằng: một vị phàm phu dầu có đa văn quảng kiến, nghe nhiều thấy rộng đến mấy nhưng nếu không khéo suy tư theo cách thế của bậc thánh thì vẫn bị chết, bị tù đày ngay trong chính những gì mình học hiểu. Phật Pháp học là để cởi ra, mà mình học là để mình túm vô. Rồi ai mà nói ngược lại với cái biết của mình thì mình bực. Cái đó là không được. Phải cởi ra, phải nghĩ rằng tại người ta không có duyên học, mà mình có duyên, thôi được rồi, chỉ vậy thôi. Nếu nói rằng người biết mà bực mình với người không biết vậy thì các vị ở cõi trời họ nhìn mình họ còn bực nữa. Bởi họ biết còn nhiều hơn mình nữa. Các vị biết Phật Pháp cõi người bây giờ nó rất yếu, chớ trong Kinh nói cõi trời bây giờ Phật Pháp rất là mạnh. Bởi 100 năm ở cõi người bằng một ngày đêm ở Đao Lợi. Mà Đức Phật ngài mới Niết bàn hơn 2.500 năm thì coi như ở trển mới hai mươi mấy ngày thôi. Có nghĩa là những vị đệ tử Đức Phật ở cõi người, chư tăng, cư sĩ thời Đức Phật chết sanh về cõi trời rất là nhiều. Trong đó có những vị thuộc nằm lòng năm tạng như rừng vậy đó, trùng trùng điệp điệp. Rồi họ nghĩ về mình làm sao? Mình ở đây học ba mớ gặp cái người hỏng biết thì coi thường. Vậy thì những vị trên đó họ coi thường mình mình chịu không?
Những đêm hôm tôi buồn quá, lẻ loi, cô độc quá, tôi nghĩ chư Phật tương lai thiếu gì, tại mình không thấy thôi. Mình nghĩ vậy mình đỡ lẻ loi. Nhiều khi mình có tâm nguyện phục vụ chúng sanh, hoặc cái gì đó mà thấy sao muốn làm mà mình bị khó khăn, bị trở ngại, đời không tri kỷ ‘Chỉ ta ta biết lòng ta ta hay’. Rồi ‘Nam nhi sự nghiệp ư hồ thủy. Hà tất cùng sầu đối cỏ cây’. Mình buồn, sanh ra hỏng ai hiểu mình hết: ‘Sanh bất phùng thời, sanh thời mạt Pháp’... Nhưng tại mình không chịu nghĩ xa, là thiện hữu thiện lữ trong tam giới này nhiều, chư Phật tương lai bây giờ đầy dẫy trong vũ trụ. Mà những người trước mặt mình, những người mình ghét nhứt bây giờ lại là những vị Phật tương lai, mà mình đã không biết mấy chuyện đó. Cho nên mình nghĩ vậy mình sẽ không cô đơn. Phải nói là ngay trong mấy chục năm trở lại đây không có ai bằng ông Gandhi nữa. Nhưng mà điều đó không có nghĩa là không bao giờ không có.
Hiện giờ có thể trong tương lai nhân loại sẽ có những Gandhi, những Lincoln mà bây giờ họ đang là những đứa bé ở trần ở truồng chạy đâu đó ở châu Á mà mình không biết. Tôi nhớ hồi đó có lần tôi đi với sư cậu về Trà Vinh, vô cái sóc Miên. Giác chiều mát mát hai cậu cháu đi lang thang, gặp mấy đứa con nít chăn trâu người Miên nó đen thui tóc quăn mà đen thui, người đất không, nó chạy đuổi trâu đi. Sư cậu tôi nói “Giác Nguyên nhìn tụi nó biết sư nghĩ gì không. Nhìn mấy đứa con nít vậy chớ Pháp sư không đó”. Thiệt người Miên đứa nít nào cũng tu hết. Nó hay lắm. Mình đang đi, đàn bà con gái mà đang chạy xe đạp, gặp mình từ xa xuống xe nép qua một bên lấy nón đứng che cúi xuống vầy nè cho mình đi qua, không có cho mình nhìn mặt đâu. Lễ phép! Còn họ thân thì ‘lục...’ ‘sư cậu’, ‘sư huynh’ không hà, kêu vậy đó. Còn con nít mười, mười hai tuổi ở trần ở truồng chạy ngời ngời ở ngoài đồng. Mà đồng khô hết nước nứt nẻ, mà chạy ngời ngời trên đó. Mình mẩy nó hôi, khét tanh, tay bắt cá bắt cào cào nó chơi. Nhưng chỉ cần nó bước vô chùa nó ngồi chồm hổm là nó đọc Pali rót rót. Còn người lớn tuổi thì vui lắm, hút thuốc mà vô chánh điện cũng hút. Muốn đảnh lễ thì nó để điếu thuốc trên nền, rồi ảnh quỳ ảnh lạy. Lạy mà cái đầu ảnh cách mặt đất cả cây số. Lạy xong lấy điếu thuốc ra ngậm tiếp ngồi nghe thuyết Pháp. Cái nhà của họ trống trước trống sau, bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu công sức của họ đổ hết về chùa. Tất cả các ngôi chùa Miên đều có lịch sử giống nhau. Là ngày xưa họ mời ở đâu bên Miên về một ông sư về ở đó. Cùng nhau họ đắp giữa đồng thành một cái gò, cất cái nhà lá lên cho ông sư ở. Ngày ngày đem cơm cho ông sư ăn. Rồi lâu ngày dài tháng, qua những mùa lúa mới chung đậu tiền bạc nhau lại đắp nền chùa. Chùa Miên nào cũng có ao rộng là tại nó lấy đất ở dưới lên đắp nền chùa. Đàn bà con nít, người già người trẻ đều có cái gánh, gánh kẽo kẹt đổ đất, gánh vậy ba năm thì được nền chùa lớn. Ban ngày nó đi làm đồng, làm rẫy làm ruộng, bắt cá bán. Chiều về trước khi đi tắm lấy quang lấy gánh ra gánh, ba năm như vậy. Mấy sư nói chùa nào cũng vậy hết, ba năm là xong cái nền. Mà vui lắm, sư nói cái cục đất bao lớn vầy nè, gánh ba năm thì thành cái núi chớ hỏng phải cái nhà nữa, cả trăm người mà. Vậy là xong cái chùa. Thương họ lắm! Hỏi họ, họ nói hai lý do tại sao họ tốt với chùa. Một, họ nói sống đây nhiều lắm 70 năm, mà những gì mình làm mình hưởng mấy triệu năm. Họ có niềm tin như vậy. Họ tin nhiều đời, ông nội họ tin như vậy, ông cố họ tin như vậy, ba họ, má họ, anh họ tin như vậy, tới họ họ cũng tin luôn. Đốt họ ra tro họ cũng tin như vậy.
Bị trói buộc tức là khi họ chứng cái đó, nếu không khéo nó thành cái gánh nặng cho họ. Và tất cả những gì mình có hôm nay, hạnh phúc của mình cũng do mình ngộ nhận mà ra. Cái đau khổ mình cũng do ngộ nhận mà ra. Tôi phải nói rõ là tôi rất xấu hổ khi tôi phải trình bày những cái tôi hiểu mà khi tôi làm chưa có hết. Phải nói một phần lý do là, Đức Phật ngài nói đối với các dục có 5 cái cần phải thấy.’Dục’ là những cái làm cho mình enjoy. Ngài nói: “Ta không phủ nhận cuộc đời nó có vị ngọt. Nhưng ta cũng muốn các vị tỳ kheo hiểu rằng bên cạnh các vị ngọt, chuyện đời nó cũng có cái vị đắng.
Vị tỳ kheo thấy được
- vị ngọt của cuộc đời là phù du,
- thấy được vị đắng của cuộc đời là đáng sợ.
- Từ đó đâm ra nhàm chán.
- Từ nhàm chán có ly tham.
- Từ ly tham đi đến giải thoát”.
Hồi đó tôi không hiểu tôi nói Đức Phật chỉ cần nói cuộc đời này là khổ thôi chớ cần gì Ngài phải nói cuộc đời này có vị ngọt. Mà không phải. Ngài nói một người mà không thấy được cuộc đời này có vị ngọt thì lỡ bữa nào gặp vị ngọt là chết. Mình không thấy bữa nào thấy là mình chết, cho nên phải thấy cái vị ngọt đó. Nhưng cũng biết rằng vị ngọt của nó là vô thường, mà vị đắng cuộc đời là đáng sợ. Mà khi thấy được cái ngọt là vô thường, cái đắng là đáng sợ thì mình mới đi đến tâm trạng thứ ba là ly tham. Từ ly tham đi đến cái yểm ly (xa lánh nó). Từ xa lánh mới đi đến giải thoát. Đó là 5 giai đoạn cần có ở một vị tỳ kheo sống giữa cuộc đời phức tạp này. Giáo Pháp Đức Phật không có phân biệt với cư sĩ. Cái gì chư tăng thấy thì cư sĩ cũng phải thấy như vậy. Bởi đạo quả Niết bàn của một vị tu sĩ với đạo quả Niết bàn của một người cư sĩ không khác nhau. Nên mình nói tất cả Phật tử đều phải như vậy.
Đối với Niết bàn, tại sao hôm nay mình bàn cãi nhau quá nhiều, Phật giáo Bắc Tông đề nghị Phật tử hãy nghĩ đến Tây Phương cực lạc, còn bên Nam Tông thì nói đến Niết bàn, vì sao? Phải nói rõ là chúng ta đang bị mắc trong cái ngộ nhận của phàm phu. Có một bài Kinh tôi nhớ trong một đêm đầu đà ở VN, anh Phật tử hỏi tôi, tôi đem bài Kinh đó ra nói, anh Phật tử nói “Chúng con đến chùa học hỏi bằng thiện chí mà con không ngờ sư Giác Nguyên nói nặng chúng con như vậy”. Thì sư cậu ngồi đó sư cậu nói: “Không, về điểm này thì Sư có thể xác định với chúng cái đó là sư Giác nguyên trích dẫn trong Kinh chớ không phải lời của sư Giác Nguyên”. Bữa đó tôi trích dẫn bài Kinh Đức Phật nói giống như con chó nó bị người ta cột vô chỗ nào thì nó có cắn, có quào, có sủa, có la thì nó cũng lòng vòng trong đó thôi.
Thì phàm phu mình giờ có học nhiều bao nhiêu, biết nhiều bao nhiêu thì tất thảy những cái đó cũng không thoát được cái đó. Cho nên bây giờ mình thắc mắc ấm ức: ‘Tu bây giờ mệt muốn chết luôn, vượt qua cám dỗ cũng mệt, mà vượt qua thử thách cũng mệt, để rồi cuối cùng cái cứu cánh nó chỉ là chấm dứt hết, hỏng có cái gì hết. Vậy thì kỳ quá! Ít ra mình cũng về cái cõi nào đó có ao báu công đức, chim nói Pháp, gió thổi ra tiếng nhạc, chung quanh là ngọc ngà, rồi có chư Phật, có thánh chúng, có Liên hoa cửu phẩm. Rồi ai tu ít ở tầng thấp nhất. Ai tu cao ở tầng cao cao, rồi từ trong bông nở ra, mình bước vô hội chúng của Phật, sống đời đời kiếp kiếp không bị chết mới vui. Có gì đâu rồi lục căn mất tiêu, không còn gì hết!’
Nhưng có điều tại sao có người họ muốn như vậy? Là bởi vì họ thấy rằng ngày nào còn lục căn là ngày đó còn khổ. Tại sao mình mơ được sanh về cực lạc? Là bởi mình chưa thấy cái khổ thực sự của sự hiện diện ngũ uẩn, lục căn. Chớ nếu mình thấy thật sự thì mình không nắm nữa. Với cuộc đời này mình phải ‘mê’ mới giữ được nó. Chớ khi mình ‘tỉnh’ mình không cách gì giữ nó. Tôi nhớ sư cậu tôi có nhiều câu đùa mà tôi nhớ hoài. Sư nói: “Phải nói cũng hên, thánh A la hán không còn sanh tử, chớ nếu tâm hồn vậy mà kêu sống ở cõi đời thì sống bằng cái gì. Bởi vì không tìm ra được cái gì để mà enjoy hết”.
Một người muốn Niết bàn là sao? Trong Kinh nói, một hình ảnh mà tôi cho là hình ảnh này đáng để ghi nhớ.
Thời Đức Phật có một quan đại thần ổng mê một cô vũ nữ, giống như Hán Vũ Đế mà mê triệu Phi Yến có đôi chân nhỏ. Ổng mê cô vũ nữ này có cái eo nhỏ. Ổng khen hoài, nói ta thương nàng ở cái eo đẹp quá đi. Nàng nghe nàng khoái nên không dám ăn nhiều. Bữa đó nàng múa múa rồi chết trên sàn nhảy, xỉu rồi nó đi luôn. Ông này đau khổ quá, đi phất phơ thất thểu. Lúc đó Đức Phật đang đi bát, đi ngang Ngài nói: “Không lửa nào bằng lửa tham dục. Không đau khổ nào bằng đau khổ đi ra từ tham dục. Ai không còn tham dục người đó không còn bị đau khổ”.
Ổng nghe xong ổng đắc A la hán luôn.
Tôi muốn nói một chuyện.Tôi hy vọng lớp học mình cứ học Phật Pháp sẽ có lúc quí vị đạt được cái này. Lúc các vị nghe tôi nói, đọc trong Kinh thì không thấm. Mà lúc tự mình mình đụng thì tự nhiên nó thấm. Cái thấm đó là cái thấm của trí Tư. Nếu cái duyên nó đủ nữa thì nó không còn trí Tư nữa mà nó thành trí Tu. Còn bây giờ các vị vô lớp nghe tôi giảng thì dầu cho tôi có thuyết phục các vị được bao nhiêu đi nữa thì chỉ là trí Văn thôi.
Nhưng sẽ có lúc các vị thấm, thấm đã lắm.
Thí dụ trong Kinh nói: “Các pháp hữu vi là vô thường, là khổ vô ngã. Đời này cái gì có sanh ra là có mất đi”. Ai học giáo lý căn bản đều biết những câu đó. Nhưng kêu mình lấy cái hiểu để giác ngộ thì khó./.
(Hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)