2021-06-07, 07:27 AM
U Silananda - CHƯƠNG SÁU: NHỮNG NHÓM SẮC PHÁP (1-3)
https://tuniemxu.com/chuong-sau-nhung-nhom-sac-phap/
Cẩm Nang Nghiên Cứu Thắng Pháp Tập II
Chương Sáu: Những Nhóm Sắc Pháp
Hôm nay, chúng ta học đến phần “Những Nhóm Sắc Pháp”, trong Pāḷi là “Kalāpa-yojana”. Từ “Kalāpa” có nghĩa là một nhóm. Như vậy, nó rất gần với từ “câu lạc bộ”. Sắc pháp không sanh lên riêng lẻ, chúng sanh lên theo nhóm mà được biết đến là Rūpa-kalāpa. Khi những sắc pháp sanh lên, chúng sanh lên trong một nhóm. Có tất cả 21 nhóm như vậy. Chúng được chia thành:
Trước hết, các bạn phải quen thuộc với tám sắc bất ly này. Nếu các bạn nhìn vào bảng nêu (xem CMA, VI, Table 6.3, p.262), các bạn sẽ thấy chúng trong phần Phân Loại Sắc Pháp (Rūpa-vibhāga), ở cột gần chót.
Tám sắc bất ly (Avinibbhoga) là
9 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Nghiệp (Kamma)
Đối với chín nhóm (Kalāpa) được tạo ra do nghiệp (Kamma), thì chín sắc pháp bao gồm
Một lần nữa, nhóm thứ nhất là gì? Đó là nhóm nhãn (Cakkhu-dasaka). Mười sắc pháp đó là gì? Chúng là tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh thị giác.
Nhóm thứ hai là nhóm nhĩ (Sota-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh thính giác.
Nhóm thứ ba là nhóm tỷ (Ghāna-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh khứu giác.
Nhóm thứ tư là nhóm thiệt (Jivhā-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh vị giác.
Nhóm tiếp theo là nhóm thân (Kāya-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh xúc giác.
Và rồi có nhóm nữ (Itthi-bhāva-dasaka) gồm có tám sắc bất ly cộng với sắc mạng quyền (Jīvita) và sắc tố nữ (Itthi-bhāva).
Nhóm tiếp theo là nhóm nam (Pumbhāva-dasaka). Mười sắc pháp là tám sắc bất ly cộng với sắc mạng quyền (Jīvita) cộng với sắc tố nam.
Và rồi nhóm tiếp theo là nhóm ý vật (Vatthu- dasaka). Vatthu ở đây là Hadaya-vatthu (sắc ý vật). Trong nhóm này có tám sắc bất ly, cộng với sắc mạng quyền (Jīvita), cộng với sắc ý vật (Hadaya).
Nhóm cuối cùng chỉ có chín, tức là tám sắc bất ly cộng với sắc mạng quyền (Jīvita).
Có tất cả chín nhóm được tạo ra do nghiệp (Kamma).
6 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Tâm (Citta)
Các bạn hãy nhìn vào cột Nguyên Nhân Sanh Ra Sắc Pháp (Rūpa-samuṭṭhāna) (xem CMA, VI, Table 6.3, p.263). Các bạn sẽ thấy tất cả những nhóm do tâm sanh (Cittaja-kalāpa).
Có bao nhiêu nhóm do tâm sanh (Cittaja-kalāpa)?
Có sáu nhóm.
Tám sắc bất ly là nền tảng. Các bạn cộng thêm một sắc pháp nào đó vào tám sắc pháp này. Đối với những nhóm (Kalāpa) do
nghiệp (Kamma) sanh, thì các bạn cộng thêm sắc mạng quyền (Jīvita) và lấy chín sắc pháp này làm nền tảng.
Nhưng ở đây, đối với sắc do tâm thức sanh (Cittaja), thì các bạn lấy tám sắc bất ly làm nền tảng. Rồi các bạn cộng thêm thân biểu tri (Kāya-viññatti) thì các bạn có một nhóm (Navaka). Rồi các bạn cộng thêm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti) và sắc cảnh thinh thì các bạn có nhóm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-dasaka). Các bạn cộng thêm khinh sắc (Lahutā) và những sắc pháp khác thì các bạn có nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka). Và rồi các bạn cộng thêm thân biểu tri (Kāya-viññatti) và ba sắc khinh và vân vân (Lahutādi) thì các bạn có nhóm thân biểu tri đặc biệt (Kāya-viññatti-lahutādi-dvādasaka). Các bạn cộng thêm ngữ biểu tri, sắc cảnh thinh và ba sắc khinh và vân vân thì các bạn có nhóm thinh-ngữ biểu tri đặc biệt (Vacī-viññatti-sadda-lahutādi-terasaka).
4 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Nhiệt Lượng (Utu)
Tiếp theo là bốn nhóm sắc (Kalāpa) được tạo ra do nhiệt lượng (Utu).
2 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Dưỡng Tố (Āhāra)
Có hai nhóm sắc (Kalāpa) được tạo ra do dưỡng tố (Āhāra).
Hai nhóm: nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh được tìm thấy bên trong và bên ngoài:
Trong cuốn CMA có ghi:
“Trong số chúng, hai nhóm sắc pháp được tạo ra bởi nhiệt lượng – nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh – cũng được tìm thấy ở bên ngoài. Tất cả những nhóm còn lại thì tuyệt đối là ở bên trong.” (CMA, VI, §21, p.254)
Chúng ta phải hiểu điều này. Trong số 21 nhóm sắc (Kalāpa), chỉ có hai nhóm là có thể được tìm thấy ở bên ngoài những chúng sanh hữu tình. Ở bên ngoài có nghĩa là ở bên ngoài chúng sanh. Những nhóm khác thì luôn luôn là ở bên trong. Ở đây, nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh cũng được tìm thấy ở bên ngoài. Chỉ có hai nhóm này có thể được tìm thấy cả bên trong lẫn bên ngoài. Chúng là nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh. Một cục đá bao gồm những cái gì? Nó bao gồm chỉ có tám sắc bất ly. Khi các bạn thả cục đá xuống đất thì âm thanh được tạo ra. Đó là nhóm cảnh thinh. Chỉ có hai nhóm này được tìm thấy ở bên ngoài những chúng sanh hữu tình. Những nhóm khác thì luôn luôn là ở bên trong.
Trong Thắng Pháp (Abhidhamma), cây cỏ, núi rừng và những vật khác tương tự thì được xem là ở bên ngoài, không bao giờ là bên trong. Cho nên, chúng ta không thể nói: có sắc mạng quyền (Jīvita) ở trong cây cỏ.
Như các bạn thấy ở đây, sắc mạng quyền (Jīvita) chỉ sanh lên ở bên trong. Nhóm mạng quyền (Jīvita-navaka) và tất cả những nhóm sắc do nghiệp sanh (Kammaja) chỉ sanh lên ở bên trong. Cho nên, theo Thắng Pháp (Abhidhamma), sắc mạng quyền (Jīvita) không thể được tìm thấy bên ngoài những chúng sanh hữu tình. Thắng Pháp (Abhidhamma) xem cây cỏ và những thứ khác là những vật vô tri, không phải là những chúng sanh hữu tình. Như vậy, nói là có sắc mạng quyền (Jīvita) trong cây cỏ là sai. Chúng ta phải rất cẩn thận khi chúng ta nói về những vật này.
Có thể có cái được gọi là đời sống trong cây cỏ, nhưng đời sống đó không phải là mạng quyền (Jīvita). Nó có thể là một cái gì đó mà được gọi là đời sống. Như vậy, tất cả 21 nhóm sắc có thể được tìm thấy ở bên trong và chỉ có hai nhóm là được tìm thấy ở bên ngoài. Khi nào chúng ta nghe sấm nổ, dầu cho nó có to như thế nào, thì nó cũng chỉ là nhóm cảnh thinh (Sadda-navaka).
Sắc giao giới (Ākāsa) và bốn sắc tướng trạng: hình thành (Upacaya), diễn tiếp (Santati), lão suy (Jaratā) và vô thường (Aniccatā) thì không thuộc vào những nhóm sắc (Kalāpa). Khi chúng ta nói về các nhóm sắc (Kalāpa), chúng ta không nói về những sắc pháp này. Chúng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa). Câu văn cuối giải thích điều này:
“Vì sắc giao giới tạo ranh giới, và các sắc tướng trạng chỉ biểu thị, cho nên, các bậc trí cho rằng chúng không phải là những thành phần của những nhóm sắc.” (CMA, VI, §22, p.254)
Tôi nghĩ ở đây bị thiếu một từ. “Vì sắc giao giới tạo ranh giới, và bốn sắc tướng trạng chỉ biểu thị các nhóm sắc (Kalāpa).” Chúng ta nên thêm vào các nhóm sắc. “Vì sắc giao giới tạo ranh giới, và các sắc tướng trạng chỉ biểu thị các nhóm sắc, cho nên, các bậc trí cho rằng chúng không phải là những thành phần của những nhóm sắc.”
Tại sao sắc giao giới và bốn sắc tướng trạng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa)?
Chúng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa) vì sắc giao giới chỉ là sự ngăn cách giữa hai nhóm sắc (Kalāpa). Khi các nhóm sắc (Kalāpa) gặp nhau thì có sắc giao giới này. Đây là khoảng trống giữa hai nhóm sắc (Kalāpa). Khoảng trống chỉ có thể được tìm thấy giữa các nhóm sắc (Kalāpa) chứ không phải bên trong các nhóm sắc (Kalāpa). Đó là lý do tại sao sắc giao giới không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa).
Trong một nhóm sắc (Kalāpa), tất cả những sắc pháp bị nén chặt vào nhau, không có khoảng trống nào ở giữa chúng. Sắc giao giới chỉ được tìm thấy giữa một nhóm này với một nhóm khác. Các nhóm này có thể đụng chạm vào nhau, nhưng vẫn có một loại khoảng trống nào đó ở giữa hai nhóm này. Và rồi những đặc điểm thì chỉ là những tướng trạng hay những giai đoạn khác nhau của những sắc pháp này. Cho nên, chúng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa). Sắc giao giới thì không được bao gồm trong những nhóm sắc vì nó chỉ tạo ranh giới cho những nhóm sắc (Kalāpa).
Các sắc tướng trạng không được bao gồm trong những nhóm sắc vì chúng chỉ biểu hiện những giai đoạn của sắc pháp: hình thành, diễn tiếp, lão suy và vô thường. Cho nên, chúng không phải là những thành phần của các nhóm sắc (Kalāpa).
Cột đầu tiên là sự liệt kê sắc pháp (Rūpa- samuddesa).
Chương này bắt đầu với sự liệt kê sắc pháp (Rūpa-samuddesa).
Chúng ta hãy nhìn vào sự liệt kê sắc pháp này. Có 28 sắc pháp (Rūpa). Các bạn có thể tìm thấy tên gọi của 28 sắc pháp này trong cuốn CMA (xem CMA, VI, Table 6.3, p.262-263).
Chúng là:
Sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) là sự kết hợp của ba sắc pháp nào?
Sự kết hợp của địa đại (Pathavī), hỏa đại (Tejo) và phong đại (Vāyo) được xem là sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba). Đó là lý do tại sao sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) xuất hiện trong 28 sắc pháp, nhưng nó không được tính như là một sự thật chân đế riêng biệt vì các thành phần của nó là ba sắc tứ đại đã được tính rồi.
Chúng ta phải cẩn thận với sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba). Mặc dầu sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) được bao gồm trong một vài sự liệt kê, nhưng con số thì không thay đổi vì sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) và ba sắc tứ đại là giống nhau. Vì chúng ta đã lấy bốn sắc tứ đại, cho nên, mặc dầu chúng ta có đề cập đến sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba), nhưng tổng số sắc pháp thì không tăng lên.
Notes:
https://vietheravada.net/bienkhao/camnangthangphap2.pdf
(Trang 400-402)
Ba sắc khinh và vân vân (Lahutādi) có nghĩa là: 3 sắc gồm:
(còn tiếp)
https://tuniemxu.com/chuong-sau-nhung-nhom-sac-phap/
Cẩm Nang Nghiên Cứu Thắng Pháp Tập II
Chương Sáu: Những Nhóm Sắc Pháp
Hôm nay, chúng ta học đến phần “Những Nhóm Sắc Pháp”, trong Pāḷi là “Kalāpa-yojana”. Từ “Kalāpa” có nghĩa là một nhóm. Như vậy, nó rất gần với từ “câu lạc bộ”. Sắc pháp không sanh lên riêng lẻ, chúng sanh lên theo nhóm mà được biết đến là Rūpa-kalāpa. Khi những sắc pháp sanh lên, chúng sanh lên trong một nhóm. Có tất cả 21 nhóm như vậy. Chúng được chia thành:
- những nhóm được tạo ra do nghiệp (Kamma),
- những nhóm được tạo ra do tâm (Citta),
- những nhóm được tạo ra do nhiệt lượng (Utu), và
- những nhóm được tạo ra do dưỡng tố (Āhāra).
Trước hết, các bạn phải quen thuộc với tám sắc bất ly này. Nếu các bạn nhìn vào bảng nêu (xem CMA, VI, Table 6.3, p.262), các bạn sẽ thấy chúng trong phần Phân Loại Sắc Pháp (Rūpa-vibhāga), ở cột gần chót.
Tám sắc bất ly (Avinibbhoga) là
- bốn sắc tứ đại (4),
- sắc cảnh sắc (Rūpa) (1),
- sắc cảnh khí (Gandha) (1),
- sắc cảnh vị (Rasa) (1) và
- dưỡng tố (Āhāra) (1).
9 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Nghiệp (Kamma)
Đối với chín nhóm (Kalāpa) được tạo ra do nghiệp (Kamma), thì chín sắc pháp bao gồm
- tám sắc bất ly cộng với
- sắc mạng quyền (Jīvita)
- Nếu các bạn cộng thần kinh thị giác vào chín sắc pháp này, các bạn có nhóm nhãn (Cakkhu-dasaka). “Dasaka” có nghĩa là một nhóm có mười. “Cakkhu” có nghĩa là thần kinh thị giác như các bạn đã biết. Như vậy, một nhóm gồm có mười sắc pháp được đánh dấu với thần kinh thị giác thì được gọi là nhóm nhãn (Cakkhu- dasaka). Mười sắc pháp này làm thành một nhóm được gọi là nhóm nhãn (Cakkhu-dasaka).
- Nhóm tiếp theo là nhóm nhĩ (Sota-dasaka). Ở đây, các bạn thay thế thần kinh thị giác (Cakkhu) bằng thần kinh thính giác (Sota). Nhóm này có tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh thính giác và được gọi là nhóm nhĩ (Sota-dasaka).
- Nhóm tiếp theo có tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh khứu giác. Nhóm mười sắc pháp này được gọi là nhóm tỷ (Ghāna-dasaka).
- Nhóm tiếp theo có tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh vị giác (Jivhā). Mười sắc pháp này được gọi là nhóm thiệt (Jivhā-dasaka).
- Nhóm tiếp theo có tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh xúc giác. Mười sắc pháp này được gọi là nhóm thân (Kāya-dasaka).
- Nhóm tiếp theo là nhóm nữ (Itthi-bhāva-dasaka), gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và sắc tố nữ (Itthi-bhāva). Mười sắc pháp này được gọi là nhóm nữ (Itthi-bhāva-dasaka).
- Tiếp theo là nhóm nam (Pumbhāva-dasaka). Ở đây, có tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và sắc tố nam. Mười sắc pháp này được gọi là nhóm nam (Pumbhāva- dasaka).
- Nhóm tiếp theo có tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và sắc ý vật. Mười sắc pháp này được gọi là nhóm ý vật (Vatthu-dasaka).
- Nhưng nhóm cuối thì chỉ có chín sắc pháp. Chúng là tám sắc bất ly và sắc mạng quyền (Jīvita). Chín sắc pháp này được gọi là nhóm mạng quyền (Jīvita-navaka).
Một lần nữa, nhóm thứ nhất là gì? Đó là nhóm nhãn (Cakkhu-dasaka). Mười sắc pháp đó là gì? Chúng là tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh thị giác.
Nhóm thứ hai là nhóm nhĩ (Sota-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh thính giác.
Nhóm thứ ba là nhóm tỷ (Ghāna-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh khứu giác.
Nhóm thứ tư là nhóm thiệt (Jivhā-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh vị giác.
Nhóm tiếp theo là nhóm thân (Kāya-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, sắc mạng quyền (Jīvita) và thần kinh xúc giác.
Và rồi có nhóm nữ (Itthi-bhāva-dasaka) gồm có tám sắc bất ly cộng với sắc mạng quyền (Jīvita) và sắc tố nữ (Itthi-bhāva).
Nhóm tiếp theo là nhóm nam (Pumbhāva-dasaka). Mười sắc pháp là tám sắc bất ly cộng với sắc mạng quyền (Jīvita) cộng với sắc tố nam.
Và rồi nhóm tiếp theo là nhóm ý vật (Vatthu- dasaka). Vatthu ở đây là Hadaya-vatthu (sắc ý vật). Trong nhóm này có tám sắc bất ly, cộng với sắc mạng quyền (Jīvita), cộng với sắc ý vật (Hadaya).
Nhóm cuối cùng chỉ có chín, tức là tám sắc bất ly cộng với sắc mạng quyền (Jīvita).
Có tất cả chín nhóm được tạo ra do nghiệp (Kamma).
6 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Tâm (Citta)
Các bạn hãy nhìn vào cột Nguyên Nhân Sanh Ra Sắc Pháp (Rūpa-samuṭṭhāna) (xem CMA, VI, Table 6.3, p.263). Các bạn sẽ thấy tất cả những nhóm do tâm sanh (Cittaja-kalāpa).
Có bao nhiêu nhóm do tâm sanh (Cittaja-kalāpa)?
Có sáu nhóm.
- Nhóm thứ nhất là Suddhaṭṭhaka. “Suddha” có nghĩa là tinh khiết hay thuần túy. “Aṭṭhaka” có nghĩa là một nhóm gồm có tám. Nó được gọi là một nhóm sắc thuần khiết gồm có tám. Suddhaṭṭhaka có nghĩa là tám sắc bất ly (bốn sắc tứ đại, sắc cảnh sắc (Rūpa), sắc cảnh khí (Gandha), sắc cảnh vị (Rasa) và dưỡng tố (Āhāra)). Như vậy, nhóm thứ nhất là nhóm tám sắc bất ly; tức là chỉ có tám sắc pháp này được tìm thấy trong nhóm (Kalāpa) này.
- Nhóm thứ hai là nhóm thân biểu tri (Kāya-viññatti- navaka). Trong nhóm (Kalāpa) này có tám sắc bất ly và thân biểu tri (Kāya-viññatti).
- Nhóm tiếp theo là nhóm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti- dasaka). Khi các bạn lấy ngữ biểu tri (Vacī-viññatti), các bạn cũng lấy âm thanh (Sadda) vì không thể có ngữ biểu tri (Vacī-viññatti) mà không có âm thanh. Khi chúng ta nói ngữ biểu tri (Vacī-viññatti), thì ý của chúng ta cũng là âm thanh. Cho nên, mặc dầu tên của nhóm là nhóm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-dasaka), nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng nó có nghĩa là nhóm thinh-ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-sadda-dasaka). Nhưng chúng ta không gọi nó là nhóm thinh-ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-sadda- dasaka). Chúng ta phải hiểu rằng âm thanh được bao gồm trong thuật ngữ nhóm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti- dasaka). Nhóm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-dasaka) bao gồm tám sắc bất ly, âm thanh và ngữ biểu tri.
- Nhóm tiếp theo là gì? Nhóm tiếp theo là nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka). “Ekādasa” có nghĩa là mười một. Lahutā có nghĩa là sắc khinh (Lahutā) và những sắc pháp khác. Thật ra, nó ám chỉ đến ba sắc pháp: khinh (Lahutā), nhu (Mudutā) và thích nghiệp (Kammaññatā). Như vậy, nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka) bao gồm tám sắc bất ly cộng với sắc khinh (Lahutā), sắc nhu (Mudutā) và sắc thích nghiệp (Kammaññatā); cho nên, có mười một sắc pháp.
- Nhóm tiếp theo là nhóm thân biểu tri đặc biệt (Kāya-viññatti-lahutādidvādasaka). Thân biểu tri (Kāya- viññatti) là một. Khinh và vân vân (Lahutādi) là ba. Cho nên, một cộng ba là bốn. Và bốn cộng với tám là mười hai. Mười hai được gọi là Dvādasa trong Pāḷi. Cho nên, chúng ta có nhóm thân biểu tri đặc biệt (Kāya-viññatti- lahutādi-dvādasaka), gồm mười hai sắc pháp với thân biểu tri (Kāya-viññatti), ba sắc đặc biệt và tám sắc bất ly.
- Nhóm cuối cùng là nhóm thinh ngữ biểu tri đặc biệt (Vacī-viññatti-sadda-lahutādi-terasaka). Ở đây, âm thanh (Sadda) được dùng. Ngữ biểu tri (Vacī-viññatti) là một. Sắc cảnh thinh (Sadda) là một. Khinh và vân vân (Lahutādi) là ba. Năm cộng với tám là mười ba. Mười ba được gọi là Terasa trong Pāḷi. Cho nên, tên của nhóm này là Vacī-viññatti-sadda-lahutādi-terasaka.
- Nhóm thứ nhất là nhóm sắc thuần khiết (Suddhaṭṭhaka), chỉ có tám sắc pháp.
- Nhóm thứ hai là nhóm thân biểu tri (Kāya- viññatti-navaka). Tức là tám cộng với thân biểu tri (Kāya-viññatti).
- Nhóm thứ ba là nhóm ngữ biểu tri (Vacī- viññatti-dasaka). Tức là tám cộng với ngữ biểu tri (Vacī-viññatti) cộng với sắc cảnh thinh (Sadda).
- Và rồi có nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka): có mười một, bao gồm tám cộng với khinh (Lahutā), nhu (Mudutā) và thích nghiệp (Kammaññatā).
- Nhóm thứ năm là nhóm thân biểu tri đặc biệt (Kāya-viññatti-lahutādi-dvādasaka). Có thân biểu tri (Kāya-viññatti) và rồi khinh (Lahutā), nhu (Mudutā) và thích nghiệp (Kammaññatā), và tám sắc bất ly.
- Nhóm cuối cùng là nhóm thinh-ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-sadda-lahutādi-terasaka): tám sắc bất ly cộng với ngữ biểu tri, sắc cảnh thinh, cộng với khinh (Lahutā), nhu (Mudutā) và thích nghiệp (Kammaññatā). Như vậy, có tất cả là mười ba sắc pháp.
Tám sắc bất ly là nền tảng. Các bạn cộng thêm một sắc pháp nào đó vào tám sắc pháp này. Đối với những nhóm (Kalāpa) do
nghiệp (Kamma) sanh, thì các bạn cộng thêm sắc mạng quyền (Jīvita) và lấy chín sắc pháp này làm nền tảng.
Nhưng ở đây, đối với sắc do tâm thức sanh (Cittaja), thì các bạn lấy tám sắc bất ly làm nền tảng. Rồi các bạn cộng thêm thân biểu tri (Kāya-viññatti) thì các bạn có một nhóm (Navaka). Rồi các bạn cộng thêm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti) và sắc cảnh thinh thì các bạn có nhóm ngữ biểu tri (Vacī-viññatti-dasaka). Các bạn cộng thêm khinh sắc (Lahutā) và những sắc pháp khác thì các bạn có nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka). Và rồi các bạn cộng thêm thân biểu tri (Kāya-viññatti) và ba sắc khinh và vân vân (Lahutādi) thì các bạn có nhóm thân biểu tri đặc biệt (Kāya-viññatti-lahutādi-dvādasaka). Các bạn cộng thêm ngữ biểu tri, sắc cảnh thinh và ba sắc khinh và vân vân thì các bạn có nhóm thinh-ngữ biểu tri đặc biệt (Vacī-viññatti-sadda-lahutādi-terasaka).
4 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Nhiệt Lượng (Utu)
Tiếp theo là bốn nhóm sắc (Kalāpa) được tạo ra do nhiệt lượng (Utu).
- Nhóm thứ nhất là nhóm thuần khiết (Suddhaṭṭhaka).
- Nhóm thứ hai là nhóm cảnh thinh (Sadda- navaka). Tức là tám sắc bất ly cộng với sắc cảnh thinh (Sadda).
- Nhóm thứ ba là nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka). Tức là có tám sắc bất ly cộng với khinh (Lahutā), nhu (Mudutā) và thích nghiệp (Kammaññatā).
- Nhóm thứ tư là nhóm thinh đặc biệt (Sadda- lahutādi-dvādasaka). Tức là có sắc cảnh thinh và ba sắc khinh (Lahutā), nhu (Mudutā), thích nghiệp (Kammaññatā) và tám sắc bất ly
2 Nhóm Sắc (Kalāpa) Được Tạo Ra Do Dưỡng Tố (Āhāra)
Có hai nhóm sắc (Kalāpa) được tạo ra do dưỡng tố (Āhāra).
- Nhóm thứ nhất cũng là nhóm thuần khiết (Suddhaṭṭhaka).
- Nhóm thứ hai là nhóm đặc biệt (Lahutādekādasaka). Ba sắc khinh, nhu và thích nghiệp cộng với tám sắc bất ly. Mười một sắc pháp này tạo nên nhóm sắc này.
Hai nhóm: nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh được tìm thấy bên trong và bên ngoài:
Trong cuốn CMA có ghi:
“Trong số chúng, hai nhóm sắc pháp được tạo ra bởi nhiệt lượng – nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh – cũng được tìm thấy ở bên ngoài. Tất cả những nhóm còn lại thì tuyệt đối là ở bên trong.” (CMA, VI, §21, p.254)
Chúng ta phải hiểu điều này. Trong số 21 nhóm sắc (Kalāpa), chỉ có hai nhóm là có thể được tìm thấy ở bên ngoài những chúng sanh hữu tình. Ở bên ngoài có nghĩa là ở bên ngoài chúng sanh. Những nhóm khác thì luôn luôn là ở bên trong. Ở đây, nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh cũng được tìm thấy ở bên ngoài. Chỉ có hai nhóm này có thể được tìm thấy cả bên trong lẫn bên ngoài. Chúng là nhóm thuần khiết và nhóm cảnh thinh. Một cục đá bao gồm những cái gì? Nó bao gồm chỉ có tám sắc bất ly. Khi các bạn thả cục đá xuống đất thì âm thanh được tạo ra. Đó là nhóm cảnh thinh. Chỉ có hai nhóm này được tìm thấy ở bên ngoài những chúng sanh hữu tình. Những nhóm khác thì luôn luôn là ở bên trong.
Trong Thắng Pháp (Abhidhamma), cây cỏ, núi rừng và những vật khác tương tự thì được xem là ở bên ngoài, không bao giờ là bên trong. Cho nên, chúng ta không thể nói: có sắc mạng quyền (Jīvita) ở trong cây cỏ.
Như các bạn thấy ở đây, sắc mạng quyền (Jīvita) chỉ sanh lên ở bên trong. Nhóm mạng quyền (Jīvita-navaka) và tất cả những nhóm sắc do nghiệp sanh (Kammaja) chỉ sanh lên ở bên trong. Cho nên, theo Thắng Pháp (Abhidhamma), sắc mạng quyền (Jīvita) không thể được tìm thấy bên ngoài những chúng sanh hữu tình. Thắng Pháp (Abhidhamma) xem cây cỏ và những thứ khác là những vật vô tri, không phải là những chúng sanh hữu tình. Như vậy, nói là có sắc mạng quyền (Jīvita) trong cây cỏ là sai. Chúng ta phải rất cẩn thận khi chúng ta nói về những vật này.
Có thể có cái được gọi là đời sống trong cây cỏ, nhưng đời sống đó không phải là mạng quyền (Jīvita). Nó có thể là một cái gì đó mà được gọi là đời sống. Như vậy, tất cả 21 nhóm sắc có thể được tìm thấy ở bên trong và chỉ có hai nhóm là được tìm thấy ở bên ngoài. Khi nào chúng ta nghe sấm nổ, dầu cho nó có to như thế nào, thì nó cũng chỉ là nhóm cảnh thinh (Sadda-navaka).
Sắc giao giới (Ākāsa) và bốn sắc tướng trạng: hình thành (Upacaya), diễn tiếp (Santati), lão suy (Jaratā) và vô thường (Aniccatā) thì không thuộc vào những nhóm sắc (Kalāpa). Khi chúng ta nói về các nhóm sắc (Kalāpa), chúng ta không nói về những sắc pháp này. Chúng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa). Câu văn cuối giải thích điều này:
“Vì sắc giao giới tạo ranh giới, và các sắc tướng trạng chỉ biểu thị, cho nên, các bậc trí cho rằng chúng không phải là những thành phần của những nhóm sắc.” (CMA, VI, §22, p.254)
Tôi nghĩ ở đây bị thiếu một từ. “Vì sắc giao giới tạo ranh giới, và bốn sắc tướng trạng chỉ biểu thị các nhóm sắc (Kalāpa).” Chúng ta nên thêm vào các nhóm sắc. “Vì sắc giao giới tạo ranh giới, và các sắc tướng trạng chỉ biểu thị các nhóm sắc, cho nên, các bậc trí cho rằng chúng không phải là những thành phần của những nhóm sắc.”
Tại sao sắc giao giới và bốn sắc tướng trạng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa)?
Chúng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa) vì sắc giao giới chỉ là sự ngăn cách giữa hai nhóm sắc (Kalāpa). Khi các nhóm sắc (Kalāpa) gặp nhau thì có sắc giao giới này. Đây là khoảng trống giữa hai nhóm sắc (Kalāpa). Khoảng trống chỉ có thể được tìm thấy giữa các nhóm sắc (Kalāpa) chứ không phải bên trong các nhóm sắc (Kalāpa). Đó là lý do tại sao sắc giao giới không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa).
Trong một nhóm sắc (Kalāpa), tất cả những sắc pháp bị nén chặt vào nhau, không có khoảng trống nào ở giữa chúng. Sắc giao giới chỉ được tìm thấy giữa một nhóm này với một nhóm khác. Các nhóm này có thể đụng chạm vào nhau, nhưng vẫn có một loại khoảng trống nào đó ở giữa hai nhóm này. Và rồi những đặc điểm thì chỉ là những tướng trạng hay những giai đoạn khác nhau của những sắc pháp này. Cho nên, chúng không được bao gồm trong những nhóm sắc (Kalāpa). Sắc giao giới thì không được bao gồm trong những nhóm sắc vì nó chỉ tạo ranh giới cho những nhóm sắc (Kalāpa).
Các sắc tướng trạng không được bao gồm trong những nhóm sắc vì chúng chỉ biểu hiện những giai đoạn của sắc pháp: hình thành, diễn tiếp, lão suy và vô thường. Cho nên, chúng không phải là những thành phần của các nhóm sắc (Kalāpa).
Cột đầu tiên là sự liệt kê sắc pháp (Rūpa- samuddesa).
Chương này bắt đầu với sự liệt kê sắc pháp (Rūpa-samuddesa).
Chúng ta hãy nhìn vào sự liệt kê sắc pháp này. Có 28 sắc pháp (Rūpa). Các bạn có thể tìm thấy tên gọi của 28 sắc pháp này trong cuốn CMA (xem CMA, VI, Table 6.3, p.262-263).
Chúng là:
- địa đại (Pathavī),
- thủy đại (Āpo),
- hỏa đại (Tejo),
- phong đại (Vāyo).
- Rồi có thần kinh thị giác (Cakkhu),
- thần kinh thính giác (Sota),
- thần kinh khứu giác (Ghāna),
- thần kinh vị giác (Jivhā),
- thần kinh xúc giác (Kāya),
- sắc cảnh sắc (Rūpa),
- sắc cảnh thinh (Sadda),
- sắc cảnh khí (Gandha),
- sắc cảnh vị (Rasa),
- sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba).
Sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) là sự kết hợp của ba sắc pháp nào?
Sự kết hợp của địa đại (Pathavī), hỏa đại (Tejo) và phong đại (Vāyo) được xem là sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba). Đó là lý do tại sao sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) xuất hiện trong 28 sắc pháp, nhưng nó không được tính như là một sự thật chân đế riêng biệt vì các thành phần của nó là ba sắc tứ đại đã được tính rồi.
- Tiếp theo là sắc tố nữ (Itthi-bhāva), và rồi chúng ta có
- sắc tố nam (Pumbhāva),
- sắc ý vật (Hadaya),
- sắc mạng quyền (Jīvita),
- dưỡng tố (Āhāra),
- sắc giao giới (Ākāsa).
- Rồi có thân biểu tri (Kāya-viññatti),
- ngữ biểu tri (Vacī-viññatti),
- và rồi khinh (Lahutā),
- nhu (Mudutā)
- và thích nghiệp (Kammaññatā)
- và hình thành (Upacaya),
- diễn tiếp (Santati),
- lão suy (Jaratā),
- vô thường (Aniccatā).
Chúng ta phải cẩn thận với sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba). Mặc dầu sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) được bao gồm trong một vài sự liệt kê, nhưng con số thì không thay đổi vì sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba) và ba sắc tứ đại là giống nhau. Vì chúng ta đã lấy bốn sắc tứ đại, cho nên, mặc dầu chúng ta có đề cập đến sắc cảnh xúc (Phoṭṭhabba), nhưng tổng số sắc pháp thì không tăng lên.
Notes:
https://vietheravada.net/bienkhao/camnangthangphap2.pdf
(Trang 400-402)
Ba sắc khinh và vân vân (Lahutādi) có nghĩa là: 3 sắc gồm:
- khinh (Lahutā)
- nhu (Mudutā)
- thích nghiệp (Kammaññatā)
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh