2021-05-31, 12:55 PM
U Silananda - MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN – TƯƠNG QUAN THỨ NHẤT (1-2)
https://theravada.vn/muoi-hai-nhan-duyen...-thu-nhat/
Tương Quan Thứ Nhất
1/ không thấy được sự thật về khổ hay Khổ Đế
3/ không biết về Diệt Đế hay sự chấm dứt vĩnh viễn đau khổ
4/ không biết về Đạo Đế hay con đường đưa đến diệt khổ
Sự liên hệ giữa vô minh và thiện hành nghiệp
Sự liên hệ giữa vô minh và bất thiện hành nghiệp
Kế đến là sự liên hệ giữa vô minh và bất thiện hành nghiệp. Hai trạng thái tâm (tâm sở) này có thể đồng thời hay khác thời điểm.
Vô Minh tự nó là một trạng thái tâm hay tâm sở bất thiện cho nên có thể sanh khởi cùng với tâm sở bất thiện hành nghiệp. Dù sanh khởi đồng thời nhưng một yếu tố làm điều kiện và yếu tố kia chịu điều kiện. Chẳng hạn, bất thiện hành nghiệp và Vô Minh sanh khởi cùng lúc nhưng Vô Minh là yếu tố điều kiện và bất thiện hành nghiệp cùng với bất thiện tâm của nó và những tâm sở khác của tâm này là yếu tố chịu điều kiện. Chúng liên hệ với nhau bằng nhiều cách. Chẳng hạn khi tâm bất thiện sanh khởi lấy Vô Minh làm đối tượng thì sự liên hệ giữa Vô Minh và bất thiện hành nghiệp theo điều kiện đối tượng. Nếu vì Vô Minh mà không thấy sự hiểm nguy trong những hành động bất thiện như giết hại, trộm cắp… thì những hành nghiệp bất thiện này chịu ảnh hưởng của Vô Minh theo điều kiện hỗ trợ mạnh mẽ.
(còn tiếp)
https://theravada.vn/muoi-hai-nhan-duyen...-thu-nhat/
Tương Quan Thứ Nhất
Do Vô Minh Làm Điều Kiện, Hành Sanh Khởi (avijjā-paccayā sankhārā = Vô Minh Duyên Hành)
Tương quan thứ nhất là “Do Vô Minh làm điều kiện, Hành sanh khởi” .
Trước hết, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của Vô Minh (avijjā). Minh (vijjā) có nghĩa là kiến thức, trí tuệ, hiểu biết. Tiếp đầu ngữ “a” trong hợp từ “avijjā” có nghĩa là “không” cho nên avijjā có ngĩa là Vô Minh.
Vô Minh có hai nghĩa:
- một là không hiểu đúng tức là không có Chánh Kiến,
- hai là hiểu sai hay tà kiến.
Nói chung Vô Minh có nghĩa là không hiểu biết.
- Theo Kinh, Vô Minh là không biết về Tứ Diệu Đế.
- Theo Vi Diệu Pháp, Vô Minh không những không biết về Tứ Diệu Đế mà còn không biết về các uẩn quá khứ, uẩn tương lai, uẩn quá khứ và tương lai.
Duyên (paccayā) có thể là gây ra (nguyên nhân) hay làm điều kiện hỗ trợ cho sự sanh khởi.
Hành (sankhāra) có ý nghĩa khác nhau tùy theo nội dung trong đó thuật ngữ này được sử dụng. Sankhāra bắt nguồn từ ngữ căn san, có nghĩa chủ động là làm hay tạo nên và nghĩa thụ động là được làm hay được tạo nên. Ở đây Hành được hiểu theo nghĩa chủ động là Hành Nghiệp tức là sự tác động hay vận hành của tâm ý tạo nên nghiệp.
Sáu Loại Hành Nghiệp
Có sáu loại Hành Nghiệp được đề cập đến trong Chú Giải. Sáu loại này được phân chia thành hai nhóm và mỗi nhóm gồm có ba.
A/ Nhóm đầu tiên gồm có
- thiện hành nghiệp,
- bất thiện hành nghiệp: tác động của tâm ý làm các việc bất thiện là bất thiện hành nghiệp
- hành nghiệp không lay chuyển: tác động tâm ý không thể lay chuyển tương ưng với cõi vô sắc
tác động của tâm ý làm các việc bất thiện là bất thiện hành nghiệp; và tác động tâm ý không thể lay chuyển tương ưng với cõi vô sắc là hành nghiệp không lay chuyển.
Ở đây chúng ta nên biết sơ qua về các loại Tâm Vương (citta) hay Thức (viññana).
Tâm Vương (Thức) có
- tâm thiện và
- tâm bất thiện.
Trong các loại tâm thiện có
- tâm thuộc về dục giới (kāmāvacara),
- tâm thuộc về sắc giới (rūpavacara) và
- tâm thuộc về vô sắc giới (arūpāvacara).
- Thiện Hành Nghiệp (kusala kamma) có nghĩa là Ý Muốn (cetanā) có mặt với các tâm thiện dục giới và sắc giới.
- Bất Thiện Hành Nghiệp (akusala kamma) là Ý Muốn có mặt với 12 tâm bất thiện.
- Hành Nghiệp Không Lay Chuyển (asaka kamma) là Ý Muốn có mặt với bốn loại tâm thiện thuộc về vô sắc giới.
Nếu quý vị không biết về các loại tâm khác nhau, chỉ cần nhớ là Hành là Nghiệp có nghĩa là Ý Muốn có mặt mỗi khi mình làm hành động thiện hay bất thiện là đủ. Khi chúng ta làm điều lành thì Ý Muốn có mặt ngay trong tâm muốn làm điều lành chính là Hành Nghiệp. Khi làm việc bất thiện, Ý Muốn cũng có mặt trong tâm và đó cũng là Hành Nghiệp.
B/ Nhóm thứ hai
Nhóm thứ hai gồm
- thân nghiệp: thể hiện qua thân là thân hành, ý muốn (cetanā) khi làm điều thiện hay bất thiện sử dụng cơ thể của mình như đảnh lễ hình tượng Đức Phật, cho ai một vật gì hay giết hại, trộm cắp
- khẩu nghiệp: thể hiện qua lời nói là khẩu hành, ý muốn hiện diện khi nói
- ý nghiệp: thể hiện qua suy nghĩ là ý hành .
Nghiệp thể hiện qua thân là thân hành, nghiệp thể hiện qua lời nói là khẩu hành, và nghiệp thể hiện nơi ý là ý hành. Thân Hành (kāyasankhāra) nghĩa là ý muốn (cetanā) khi làm điều thiện hay bất thiện sử dụng cơ thể của mình như đảnh lễ hình tượng Đức Phật, cho ai một vật gì hay giết hại, trộm cắp… Như vậy, ý muốn đi kèm với tâm khi chúng ta dùng thân làm những hành động thiện hay bất thiện này là thân hành (kāya sankhāra). Khi chúng ta nói những lời thiện và bất thiện, ý muốn hiện diện được gọi là khẩu hành (vaji sankhārā). Khi chúng ta chỉ suy nghĩ thì ý muốn hiện diện trong tâm muốn làm những hành động thiện và bất thiện lúc đó được gọi là ý hành (citta sankhāra).
Nhóm thứ hai này không khác với nhóm thứ nhất. Thực vậy, chúng được bao gồm trong nhóm thứ nhất.
Tương quan thứ nhất này có nghĩa là gì?
- Do Vô Minh nên chúng ta làm những việc thiện và bất thiện.
- Điều này có nghĩa là bất cứ hành động thiện hoặc bất thiện nào xảy ra đều có Vô Minh làm điều kiện.
Ý nghĩa này được giải thích trong Chú Giải dưới hình thức vấn đáp.
Hỏi: Làm thế nào chúng ta biết được Hành (sankhāra) sanh khởi có Vô Minh (avijjā) làm điều kiện?
Đáp
: Câu trả lời là chúng ta biết được Vô Minh làm điều kiện cho Hành sanh khởi vì
- khi có Vô Minh thì các Hành sanh khởi và
- khi không có Vô Minh thì các Hành không sanh khởi.
- Do sự kiện này mà chúng ta biết Hành sanh khởi có Vô Minh làm điều kiện.
Điều này cũng tương tự như ví dụ sau đây. Làm thế nào chúng ta biết bóng là do ánh sáng gây ra? Chúng ta biết như vậy là vì
- khi không có ánh sáng thì không có bóng và
- khi có ánh sáng là có bóng.
- Vì thế chúng ta kết luận là bóng do ánh sáng gây ra.
Như thế nào Hành sanh khởi do Vô Minh? Vô Minh được giải thích
- trong Kinh là không biết về Tứ Diệu Đế (Cattāri Ariyasasaccāri).
- Theo Vi Diệu Pháp, Vô Minh là không chỉ không biết về Tứ Diệu Đế mà còn không biết các uẩn quá khứ, các uẩn tương lai, các uẩn quá khứ và tương lai, và Pháp Duyên Sinh.
1/ không thấy được sự thật về khổ hay Khổ Đế
Vì Vô Minh nên chúng sanh không thấy được sự thật về khổ hay Khổ Đế (Dukkhasacca). Vì không biết Khổ Đế, chúng sanh không biết tất cả mọi thứ trên cõi đời đều bất toại nguyện cho nên tưởng rằng cuộc đời và thú vui là hạnh phúc nên hành động theo đó. Khi hành động chúng sanh tạo ra hành nghiệp thiện và bất thiện. Như vậy hành nghiệp chịu điều kiện của Vô Minh tức là không biết về diệu đế thứ nhất là Khổ Đế.
2/ không biết Ái là nguyên nhân của khổ tức Tập Đế
Và cũng vì Vô Minh nên chúng sanh không biết Ái là nguyên nhân của khổ tức Tập Đế.
Chúng sanh không những
- không biết chính ái dục là nguyên nhân của khổ đau mà
- đa số còn cho rằng ái dục là suối nguồn hạnh phúc.
Những người này tin tưởng sai lầm rằng phải có vật sở hữu mới hạnh phúc nên đâm ra ưa thích sở hữu nhiều thứ. Do sự suy nghĩ Ái chính là nguyên nhân của hạnh phúc như thế nên chúng sanh tạo ra Hành Nghiệp. Họ có thể làm việc phước thiện hay bất thiện. Nói cách khác, hành nghiệp thiện và bất thiện sanh khởi do Vô Minh làm điều kiện tức là sự không thấu hiểu về diệu đế thứ hai là Tập Đế (Samudayasacca).
3/ không biết về Diệt Đế hay sự chấm dứt vĩnh viễn đau khổ
Chúng sanh không biết về Diệt Đế hay sự chấm dứt vĩnh viễn đau khổ nên nghĩ rằng có cảnh giới cao nhất nào đó không còn khổ. Chúng sanh cho cảnh giới cao nhất này là thiên đàng nên cố gắng hành động hay thiền tập để được sanh về đó. Đó là Hành Nghiệp và Hành Nghiệp này chịu điều kiện bởi Vô Minh tức là không hiểu biết về diệu đế thứ ba là Diệt Đế (Nirodhasacca).
4/ không biết về Đạo Đế hay con đường đưa đến diệt khổ
Chúng sanh cũng không biết về Đạo Đế hay con đường đưa đến diệt khổ nên tạo Hành Nghiệp. Trước kia, người ta nghĩ là để chấm dứt đau khổ hay đạt tới đỉnh cao nhất của hạnh phúc, nên giết súc vật tế thần, hành hạ thân xác…Căn cứ trên tin tưởng như vậy mà họ làm những hành động bất thiện. Như vậy hành nghiệp chịu điều kiện bởi vô minh tức là không hiểu biết về diệu đế thứ tư là Đạo Đế (Maggasacca).
Nói một cách khác, có cái gọi là quả của thiện nghiệp. Quả này dưới hình thức tái sanh vào cảnh giới tốt lành hơn, có tài sản hay địa vị…Hầu hết mọi người nghĩ những thứ này là hạnh phúc hay đưa tới hạnh phúc nên họ cố gắng tạo thiện nghiệp để được hưởng quả tốt. Như vậy, thiện nghiệp chịu điều kiện bởi Vô Minh tức là sự không hiểu biết về kết quả của thiện nghiệp liên kết với tuổi già, bệnh hoạn và mệnh một.
- Ngoài ra, chúng sanh không thấy nguy hiểm khi tham đắm vào dục lạc.
- Rất nhiều người không thấy được là mọi dính mắc đều mang lại khổ đau.
- Họ nghĩ dục lạc là tốt đẹp nên miệt mài theo đuổi và để được thỏa mãn, có lẽ họ đã làm nhiều điều sai lầm.
- Và bất cứ hành động bất thiện nào được thực hiện cũng chịu điều kiện bởi Vô Minh tức là không hiểu biết về bản chất thực sự của tham muốn hay dính mắc.
Do đó, Vô Minh là điều kiện để cho hành nghiệp bất thiện sanh khởi.
Như vậy, bất cứ những gì chúng ta làm trong đời sống dù thiện hay bất thiện cũng đều có Vô Minh làm điều kiện. Ngoại trừ các vị Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác, A La Hán, những chúng sanh còn lại ít nhiều đều có Vô Minh như vậy.
Còn thiền tập thì sao? Nó có bị Vô Minh chi phối hay không?
Chú Giải không có đề cập đến trường hợp này. Sư cũng không có câu trả lời dứt khoát cho quý vị vì thật khó để nói rằng thực tập thiền là do Vô Minh. Tuy nhiên, chúng ta có thể lý giải là ngay thiền tập, một cách gián tiếp, cũng bị điều kiện bởi Vô Minh. Lý do là chúng ta chưa tận diệt hết Vô Minh nên Vô Minh còn tiềm tàng trong tâm. Hơn nữa, chúng ta có thể lý luận rằng thiền tập là hành động phước thiện nên là thiện hành nghiệp. Vì thế nó phải chịu chi phối của Vô Minh như Chú Giải đã giải thích là Hành Nghiệp có Vô Minh làm điều kiện. Do đó, chúng ta có thể nói hành động dầu thiện hay bất thiện đều có gốc rễ trong Vô Minh kể cả thiền tập.
Trong tương quan giữa Vô Minh và Hành Nghiệp, hai nhân duyên này liên hệ với nhau như thế nào?
Trước hết chúng ta phải hiểu là không phải tương quan nào trong Pháp Duyên Sinh cũng có các nhân duyên hay yếu tố thuộc vào các thời điểm khác nhau.
- Yếu tố làm điều kiện
- và yếu tố chịu điều kiện
có thể sanh khởi vào hai thời điểm khác nhau hay cùng lúc. Hiểu được điều này mới có thể hiểu được các tương quan trong Pháp Duyên Sinh.
Vô Minh và Hành Nghiệp tương quan theo nhiều điều kiện hay cách thế khác nhau thật là phức tạp. Muốn hiểu rõ tương quan giữa hai nhân duyên này cần có kiến thức về 24 điều kiện tương quan hay là Duyên Hệ Duyên (paṭṭhāna) trong Vi Diệu Pháp. Tuy nhiên, có thể lấy ví dụ để làm sáng tỏ vấn đề.
Sự liên hệ giữa vô minh và thiện hành nghiệp
Đầu tiên là sự liên hệ giữa vô minh và thiện hành nghiệp. Vô Minh và thiện hành nghiệp thuộc về hai thời điểm khác nhau. Vô Minh sanh khởi vào một thời điểm và thiện hành nghiệp sanh khởi vào thời điểm khác. Chẳng hạn khi thực tập Thiền Minh Sát, chúng ta lấy Vô Minh làm đề mục và suy nghiệm rằng Vô Minh là vô thường, biến hoại. Trong trường hợp này tâm thức của chúng ta có tâm thiền tập và tâm sở Hành Nghiệp hiện diện. Do đó, Vô Minh và Hành Nghiệp tương quan với nhau theo điều kiện về đối tượng vì đối tượng thiền tập là Vô Minh.
Khi chúng ta cố gắng tẩy trừ Vô Minh qua bố thí, trì giới hay hành thiền thì chúng ta tạo thiện hành nghiệp. Trong trường hợp này, Hành Nghiệp và Vô Minh tương quan với nhau không theo điều kiện đối tượng nhưng theo điều kiện về sự hỗ trợ mạnh mẽ.
Một đôi khi chúng ta cho cõi trời cũng như cõi người là tốt lành đáng ưa thích nên cố gắng làm việc phước thiện với ý muốn được sanh vào những nơi đó. Vì Vô Minh, chúng ta không biết rằng cảnh giới nào cũng đều bất toại nguyện nên đã làm việc phước thiện để đạt mục đích như vậy. Do đó, khi làm những hành động phước thiện này, Hành Nghiệp chịu ảnh hưởng bởi Vô Minh. Cả hai liên hệ với nhau theo điều kiện hỗ trợ mạnh mẽ chứ không phải nhân quả.
Chúng ta muốn tái sanh vào cảnh trời vô sắc cho nên đã thực tập và đắc các tầng thiền vô sắc. Do đó, sự thực tập đắc các tầng thiền vô sắc là hành nghiệp thiện chịu ảnh hưởng của Vô Minh. Vô Minh ở đây là không biết rằng ngay các trạng thái tâm của các chúng sanh vô sắc cũng vô thường. Hành Nghiệp và Vô Minh như vậy tương quan với nhau theo điều kiện hỗ trợ mạnh mẽ.
Sự liên hệ giữa vô minh và bất thiện hành nghiệp
Kế đến là sự liên hệ giữa vô minh và bất thiện hành nghiệp. Hai trạng thái tâm (tâm sở) này có thể đồng thời hay khác thời điểm.
Vô Minh tự nó là một trạng thái tâm hay tâm sở bất thiện cho nên có thể sanh khởi cùng với tâm sở bất thiện hành nghiệp. Dù sanh khởi đồng thời nhưng một yếu tố làm điều kiện và yếu tố kia chịu điều kiện. Chẳng hạn, bất thiện hành nghiệp và Vô Minh sanh khởi cùng lúc nhưng Vô Minh là yếu tố điều kiện và bất thiện hành nghiệp cùng với bất thiện tâm của nó và những tâm sở khác của tâm này là yếu tố chịu điều kiện. Chúng liên hệ với nhau bằng nhiều cách. Chẳng hạn khi tâm bất thiện sanh khởi lấy Vô Minh làm đối tượng thì sự liên hệ giữa Vô Minh và bất thiện hành nghiệp theo điều kiện đối tượng. Nếu vì Vô Minh mà không thấy sự hiểm nguy trong những hành động bất thiện như giết hại, trộm cắp… thì những hành nghiệp bất thiện này chịu ảnh hưởng của Vô Minh theo điều kiện hỗ trợ mạnh mẽ.
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh