2020-06-18, 12:05 AM
(tt) Sư Toại Khanh Giảng KTC 6.80 Lớn Mạnh và các Kinh Khác (2-3)
11/09/2019 - 07:50 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
KTC 6.85 Mát Lạnh
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể chứng ngộ vô thượng thanh lương. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể chứng ngộ vô thượng thanh lương. Thế nào là sáu?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
Rồi kinh 85 phải giải thích nè. Kinh 85 là kinh Mát lạnh, nội dung kinh này là gì? Muốn hiểu kinh này chúng ta dùng một hình ảnh như thế này: Một cái người làm ruộng họ phải biết rất rõ cái miếng ruộng của họ lúc nào là cần vô nước, mà lúc nào là lúc cần xả nước họ phải biết rõ. Không biết trong room tôi nói có hiểu không, ở đây có nhiều người dân phố, dân chợ chắc nghe không hiểu. Cần vô nước có nghĩa là khi ruộng nó khô quá là mình phải cho nước nó vô để cho lúa nó có thể sống được. Nhưng mà có những trường hợp mà mực nước nó cao quá không tốt cho lúa, một là nó làm chậm sức phát triển, hai là nó làm cho lúa úng, lúa chết. Cho nên mình phải biết rõ lúc nào cho nước vô, lúc nào cho nước ra, mà nếu vô là vô cao bao nhiêu, mà nếu cho nước ra thì cạn bao nhiêu. Là chỉ riêng mấy cái ruộng thôi đó phải biết mực nước.
Chưa kể là, mình thấy vô nước biển không? Vô nước biển, vô serum, truyền huyết thanh thì khác, mình thấy có lúc có những trường hợp mà mình phải cho nước biển nó đi nhanh một chút, có những trường hợp phải cho nó đi thiệt là chậm, bị bệnh nhân nó run, lạnh quá phải chậm lại một chút, thí dụ như vậy. Do một tình trạng sức khỏe như thế nào đó mà mình phải cho nước biển nó đi nhanh một chút, điều chỉnh cái nút nằm trong cái dây truyền nước biển.
Thì nãy giờ mình thấy làm ruộng hoặc là vô nước biển là mình phải có khả năng điều chỉnh, biết lúc nào nên tăng, nên giảm, nên thêm, nên bớt.
Ở đây cũng vậy, nội tâm tu hành y chang như vậy, thì ở trong kinh Thất giác chi mình học năm ngoái đó, toàn bộ đời sống của chúng ta, chúng ta chỉ có hai thứ tâm trạng mà mình cứ vật lộn với nó hoài thôi, vật lộn suốt như vậy. Một là cái tâm nó bị thiếu lửa, nó không đủ sức phấn chấn, không đủ sự năng động, tích cực, mà mình sống bệ rạc, sa đà, tiêu cực, không có đủ sức vươn lên, hướng tới, trong trường hợp đó cái tâm của hành giả cần phải được kéo lên, cần phải được vực dậy.
Còn có trường hợp mà hành giả bung xung quá, năng động quá mức cần thiết thì lúc đó nó cần phải được làm cho tĩnh lặng lại, calm down lại, ổn định lại, bình ổn lại. Mà mình nói suông vậy, quí vị tưởng tượng ổn là ổn cách nào? Kinh này Phật thuyết cho người hữu duyên, khi Ngài nói vậy người ta nghe người ta hiểu.
Còn bây giờ như mình đây, nói chung chung là hiểu rồi đó, lúc nào cái tâm mình nó tuột xuống thấp quá thì mình kéo nó lên, vực nó dậy. Còn khi nào mà cái tâm nó bung xung, nó tích cực quá đáng, năng động quá mức, thì lúc đó mình tìm cách mình bình ổn nó. Bình ổn bằng cách nào? Trong Tương ưng kinh, Đức Phật Ngài dạy rất rõ, khi nào cái tâm mà bị tuột dốc, thiếu cái sức năng động, không đủ tinh tấn thì vị tỳ kheo phải vận dụng ba cái giác chi là trạch, cần, hỷ.
Trạch là phải dùng trí văn, tư, tu. Lúc đó bao nhiêu kiến thức Phật Pháp, bao nhiêu khả năng suy nghĩ, tư duy phải biết xài, bởi vì, tôi không nói dùm thiên hạ, mà tôi chỉ nói trường hợp của tôi thôi. Tức là có bao nhiêu là vấn đề giáo pháp mà khi mình nghĩ tới, mình sẽ qua đó tìm thấy sự phấn chấn. Thí dụ mình suy tư, mình nghĩ tại sao mà nó như vậy? Rồi mới đi lục lạo, đi tra cứu, đi tìm hiểu. Tìm gặp được nó mừng, nó đã lắm, nó giống như là một mắc tre chẻ được cái đó nó thông chỗ khác, nó sướng lắm. Đó là một cái.
Cái thứ hai, trong lúc mà tìm không ra, nó căng cái đầu ra, thì coi như mình đã tự cứu mình ra khỏi cái tình trạng mà gọi là ê chề, chán chường, buông xuôi, tiêu cực. Tự mình kéo lên bằng cách đó, là phải dùng trí, tức là trạch giác chi. Và phải suy xét nữa, suy xét coi tại sao mà như vậy? Có cái gì đó trong đời sống, trong sinh hoạt của mình mà cần được điều chỉnh? Để làm được chuyện đó, dứt khoát quí vị phải có trí tuệ. Cái đó gọi là trạch pháp giác chi. Phải điều chỉnh cái đó, tại sao vậy ta? Mà ở đây, muốn điều chỉnh là phải cần ba thứ trí là văn, tư, tu. Bà con mà dốt giáo lý thì chỗ này tôi đâu có chỉ được. Cho nên nói vắn tắt là phải có văn, tư, tu; phải có trạch pháp giác chi.
30:29
12/09/2019 - 09:18 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cần, cần ở đây là tinh tấn. Lúc đó mình phải gượng dậy thôi, bởi vì mình nhớ một vài chuyện để mình tinh tấn. Thứ nhất, cơ hội để mình tinh tấn không có nhiều lắm đâu, chỉ nhớ bao nhiêu đó, nếu một người có cơ duyên tu hành là chỉ nhớ có một câu này đủ rồi. Chỉ cần nhớ là "Cơ hội để mình siêng năng không có nhiều". Tại sao vậy ta? Là bởi vì chính ở trong Tăng chi bộ, Đức Phật Ngài dạy rất rõ rằng: "Này các tỳ kheo, các ông phải thường xuyên tư niệm, tâm niệm những điều sau đây để vực dậy cái nội tâm tu hành đang lui sụt…" Một là ngay bây giờ mình còn khỏe, còn trẻ, mình còn có thể ngồi như ý, mình có thể đi đứng như ý mà mình không nỗ lực tu tập, mai này mà nó liệt giường, liệt chiếu, đầu óc thì mụ mẫm, lú lẫn, cơ thể thì đau đớn, tê buốt, mỏi mệt, đau chỗ này, đau chỗ kia, nội tạng, ngoài da, tùm lum hết, thì nói chung trong một cái điều kiện sức khỏe của người già, người bệnh, mình không có còn tinh tấn được, mà bây giờ là thời điểm tốt nhất.
Tôi cũng nói rõ cho bà con, Kalama mà làm xong, người có lòng cầu giải thoát nên về đó thử đi, thử để thấy. Các vị có quyền đi các thiền viện khác, đi cho đã đi rồi về Kalama sẽ thấy một chuyện, đó là đợi tới già mà tu thiền là tu cái gì? Bây giờ mình đang khẩn cấp tìm một cái chỗ thích hợp để mà mình phát hiện ra một điều cực kỳ quan trọng, đó là bây giờ mình có thể ngồi một tiếng, hai tiếng; bây giờ mình có thể đi thiền hành một tiếng, hai tiếng; thiền tọa một tiếng, hai tiếng; bây giờ mình còn có thể ăn uống kiểu nào cũng được, ăn khổ, ăn cực gì cũng được, ăn rau rừng, uống nước suối cũng được, thí dụ như vậy . Nhưng sẽ có một ngày mình không có khả năng đi, ngồi, và ăn uống, sinh hoạt đơn giản như bây giờ nữa; mà lúc đó đi đâu cũng có nguyên một túi thuốc đi theo, đi đâu phải có khăn choàng cổ, khăn trùm đầu; đi đâu cũng có người nắm tay, xốc nách, dìu dắt, lên cái bậc thang hai, ba bậc thở hì hục, các vị tưởng tượng tu là tu cái gì?
Cho nên chuyện đầu tiên Đức Phật dạy "Này các tỳ kheo hãy tâm niệm như sau: Đây là thời điểm tốt nhất để ta tinh tấn khi mà cơ thể ta còn trẻ, còn khỏe, còn có thể làm theo lời dạy của Thế Tôn". Thứ hai, vị tỳ kheo tâm niệm rằng ngay bây giờ cái điều kiện sinh hoạt của ta như là khất thực, hoặc là bệnh hoạn, thuốc men, cốc liêu có người hộ trì, ngay bây giờ những điều kiện vật chất còn tốt mà mình không tranh thủ, biết đâu có một ngày những điều kiện đó không còn nữa thì tu kiểu gì? Tu kiểu gì đây? Đó là điều thứ hai.
Điều thứ nhất là sức khỏe của mình, tình trạng này mình không tận dụng nó mà mình đợi tới già mình tu đó là một suy nghĩ tâm thần, một suy nghĩ mất trí, một suy nghĩ ngu xuẩn, bởi vì lúc đó hỏng có làm được gì hết. Thời điểm tốt nhất chính là lúc này, chính là lúc này, các vị hỏi tôi bao giờ? Tôi nói "ngay lúc này". Còn quí vị nói quí vị bận thì tôi có hai cách nói, một thì đi ch đi; cách hai, nếu mà quí vị bận thì chỉ còn có một cách là tranh thủ trong thời gian sớm nhất như có thể. Chớ còn nói đợi tới tuổi già thì vô phương.
Cái thứ hai, bây giờ cái điều kiện sinh hoạt, điều kiện vật chất nó còn đang ok mà mình không tranh thủ, mai mốt mà nó khó khăn rồi là chỉ có kêu trời, nha.
Cái thứ ba nữa là bây giờ Tăng chúng còn đang ok chưa có chia phe rẽ phái, Tăng chúng còn đang hòa hợp thanh tịnh. Thí dụ bây giờ Miến Điện, ở đâu tôi không dám ý kiến, còn Miến Điện bây giờ quí vị muốn tìm thấy hình ảnh một nhóm đông mà năm, ba chục, một, hai trăm tỳ kheo thanh tịnh mà ngồi làm lễ bố tát phát lồ rất là dễ, dễ ẹc. Bên Miến Điện có một điểm mà mỗi lần nhắc tôi chỉ quì lạy Phật giáo Miến Điện, đây là cái đều mà phật tử Việt Nam không mấy ai biết hoặc là không muốn biết, không thèm biết hoặc không thể biết. Đó là, đặc điểm của Phật giáo Miến Điện là ông sư Miến Điện không biết giáo lý thì im, ông sư Miến Điện theo tôi biết là không có nói ẩu, không có lập phe, lập phái. Chẳng hạn mình nói thẳng như Phật giáo Thái Lan đi, nói nghiêm khắc, rồi là kỷ cương toàn là trên hình thức, diễn, đừng có nghĩ tôi ác ý, đó là sự thật thôi. Phải nói là về mặt nghi thức, hình thức lễ nghi là phải nói Thái Lan là number one, đúng, nhưng mà về mặt tôn giáo cẩn thận là bởi Thái Lan là một cái chỗ mà chỉ cần mình có chỗ dựa, chỗ dựa mình là một sư phụ nổi tiếng hoặc là các đại gia, thì mình hoàn toàn mình có thể bày ra những pháp môn tu gọi là thanh thản. Bên Thái Lan là một cái xứ mà giáo chủ nhiều vô địch, thí dụ như gần đây mình thấy Thái Lan có cái pháp môn Ahosi mà Việt Nam mê như điếu đổ, tu đó là tu trục trược, tu để mà giải phóng ác nghiệp tiền thân, nghe đã lắm.
Nhưng Miến Điện thì không, Miến Điện tại vì cách giáo dục Tăng đoàn của họ nó ngộ lắm, anh dốt thì anh im, mà anh nói được là anh nói có sách, mách có chứng và từ đó nó dẫn tới cái chuyện này, bên Miến Điện Tăng chúng không có nói xấu nhau. Thí dụ như bây giờ Ngài Sitagu không có thích Ngài Pa Auk, thì khi hỏi về Ngài Pa Auk thì Ngài tìm cách Ngài tránh, Ngài nói về Ngài Pa Auk rất là tôn kính, nhưng Ngài tránh nói nhiều về Ngài Pa Auk. Thí dụ Ngài Pa Auk không có thích Ngài Nandamala thì Ngài cũng tìm cách Ngài tránh, nhưng mà trước khi tránh hẳn cái đề tài về vị kia thì Ngài cũng nói rất là đàng hoàng, chứ không có cái chuyện là vì cái tình cảm riêng tư cá nhân, mình ghét cái ông đó là mình phủ nhận toàn bộ kiến thức Phật học của ông đó, mình không có lường được cái bậy đó đâu. Bởi vì sao? Vì ông kia dầu gì ổng cũng có tiếng nói trong thiên hạ, mà khi mình phủ nhận như vậy phật tử họ hoang mang họ biết đi về đâu, vì họ tin mình mà. Như ông sư A ổng có một nhóm phật tử mà ổng ghét ông sư B quá ổng mới mạt sát, mạ lị, dè bỉu, ổng chà đạp ông kia, mình nghĩ cái đó là chuyện cá nhân. Sai, cái đó hỏng phải chuyện cá nhân. Khi mà ổng chà đạp như vậy, từ đây về sau những người họ đến đây họ nghe ông B, họ nghe kiểu gì đây? Phật giáo Miến Điện không có vụ đó, chuyện riêng là riêng, họ xử việc chứ họ không có xử người. Tôi không có ưa anh, đúng, nhưng mà nếu anh giảng đúng, tôi vẫn nói về anh bằng tất cả sự trân trọng.
Cho nên cái chuyện mà ngày nào Tăng chúng còn hòa hợp thanh tịnh, mình phải ghi nhận đó là thời điểm bằng vàng, bằng vàng quí vị à. Chớ các vị đừng có tưởng "Ô tôi là cư sĩ tóc tai tùm lum, cái chuyện Tăng chúng hòa hợp kệ nó mắc mớ gì tôi, tôi chỉ quởn quởn vô chùa cúng dường". Sai bét. Tăng chúng mà chia rẽ nhau rồi nạn nhân đầu tiên là mấy ông sư, nạn nhân tiếp theo là quí vị, vì Tăng chúng chia rẽ không còn hòa hợp thanh tịnh nữa thì sao? Là sẽ có năm phe, bảy phái và giáo lý manh mún rời rạc, ông nào cũng làm giáo chủ hết các vị tu theo ai? Cứ là mình mới vừa theo Ngài Hộ Pháp được có mấy ngày là bắt đầu các vị kia chửi Ngài không còn gì, mà tôi cư sĩ vợ con đùm đề mà tôi đâu có đủ thời gian tôi biết Ngài Hộ Pháp nói sai hay nói trúng, ai mà biết, tôi nghe vậy tôi bắt đầu tôi hoang mang; cái tôi bỏ Ngài Hộ Pháp tôi chạy qua bên Ngài Viên Minh, tôi mới vừa qua Ngài Viên Minh là bị người ta chửi tan nát, tôi mới hoang mang; tôi mới chạy qua bên Ngài Bửu Chánh-Phước Sơn mà tôi đụng đâu cũng nghe thị phi hết; cuối cùng tôi đi về đâu, quí vị tưởng tượng đi? Cho nên nó kẹt lắm. Cái sự hòa hợp thanh tịnh của chúng tăng vô cùng và vô cùng quan trọng và đừng có nghĩ rằng đó là chuyện của chư tăng không có mắc mớ gì cái đám có tóc. Sai. Khi chư tăng không còn hòa hợp thanh tịnh thì nạn nhân đầu tiên chính là mấy ông sư, nạn nhân tiếp theo là cư sĩ. Nhớ nha, cái này lớn chuyện lắm nha.
Cho nên cái chuyện thứ hai, vị tỳ kheo phải tâm niệm rằng hôm nay ta còn trẻ, còn khỏe, ta phải tinh tấn. Tiếp theo bây giờ là thời điểm mà ta còn dễ dàng những điều kiện vật chất.
Thứ ba, đây là thời điểm Tăng chúng còn hòa hợp thanh tịnh.
Thứ tư là thiên hạ nhân gian chưa lâm cảnh loạn lạc. Bây giờ xã hội nó bị rối rắm vì chiến tranh, mình thấy cái xã hội mà buôn lậu, xã hội mà sa đà đạo đức chắc chắn có ảnh hưởng cửa thiền, đừng nói với tôi là không có, nha, chắc chắn là có. Tôi đang lo một chuyện mai này khi mà cái làn sóng kinh tế ở Miến điện nó trổi dậy, rồi cái sự cuốn hút cám dỗ từ nhịp sống vật chất nó sẽ từ ở ngoài phố tràn vô chùa thì mọi sự nó không còn như thuở nào nữa. Mà may đó là sự xáo trộn về sự sinh hoạt thường nhật, tôi chưa nói là chinh chiến can qua khói lửa binh đao các vị hiểu không?
Nên trong kinh Đức Phật Ngài dạy đây là bốn thời điểm mà vị tỳ kheo phải tâm niệm:
40:47
13/09/2019 - 07:21 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cho tôi nói cái này nó hơi lạc đề chút, tại sao mình ở gần cái người thông minh? Thế nào là một người đầu bếp thông minh? Là họ giỏi lắm, họ có thể linh hoạt mùa nào thức nấy, mình bỏ ăn, mình bị nhạt miệng họ tìm đủ cách để cho mình ăn được, đó là người đầu bếp thông minh. Một thằng bạn thông minh là có thể nó đủ thứ chuyện để mà nó chia xẻ cho mình khi mà mình không tìm được sức sống. Một người vợ thông minh, một người chồng thông minh, một người em thông minh, một người anh thông minh nói chung là chính cái thông minh nó giúp cho ta tìm ra được những lối thoát, cho nên đó là trạch pháp giác chi.
Còn cần giác chi thiếu nó không được vì nó thông minh mà nó lười quá, mình tìm ra được con đường rồi, tìm ra rồi, cầm bí kíp cẩm nang trong tay mà nó cứ đơ ra, nó nằm dật dờ dật dựa vậy thì cũng không được. Cho nên có trí huệ nhưng phải có tinh tấn, phải có cái sức bật.
Cái thứ ba nữa đó là hỷ giác chi, có nghĩa là có đủ nguồn vui đạo vị như nãy trong bài kinh trước học rồi, có đủ nguồn vui đạo vị cần móc ra, có nhiều cái vui lắm, ngồi chán đi kinh hành, chán kinh hành nhảy vô ngồi, chán quá đi trình pháp, chán quá vô rút cuốn kinh ra đọc; chán quá đi ra ngoài tỉa cây, tưới kiểng, quét sân chút. Dĩ nhiên vừa làm vừa chánh niệm nhưng phải đổi cảnh miễn sao cho nó vui, kiếm cái gì mà mình thấy nó vui mình nhào ra mình làm, còn mà bí quá lên nói thiền sư một tiếng xách cái túi vọt. Đi lên đảnh lễ bảo tháp, đảnh lễ cây bồ đề, thăm núi, thăm đồi, thăm con đường đất, thăm một ngôi làng kế bên, ra sông, ra suối cho cái đầu óc nó co dãn chút xíu rồi trở về tu tiếp. Bởi vì mỗi người có nhiều kiểu tìm niềm vui cho mình, niềm vui động và niềm vui tĩnh.
Niềm vui động có nghĩa là chạy ra ngoài kiếm thầy, kiếm bạn, kiếm chỗ lễ bái, cầu nguyện, khấn khứa, lạy lục, đi vãng cảnh.
Còn niềm vui tĩnh là quay về với chính mình, với cái đời sống nội tại miễn là có được hỷ giác chi.
Còn khi nào mà tinh thần mà nó bung xung, năng động mà đến mức manh động luôn thì mình phải xài đến ba cái tĩnh, định, xã; tĩnh giác chi, định giác chi và xã giác chi.
Tĩnh giác chi là cái sự yên tĩnh của danh pháp, là sao ta? Sự yên tĩnh của danh pháp nó đến từ mấy nguồn, mình thấy rằng toàn bộ hoạt động của chúng ta gói gọn trong ba hành, tức là thân hành, khẩu hành và ý hành.
Thân hành của mình là hơi thở ra vào; tâm hành của mình là thọ, tưởng; khẩu hành của mình là tầm, tứ. Ở đây thế nào trong room cũng có mấy cái mặt đơ đơ nói cái kinh nào giảng lạ vậy ta? Làm ơn ghi dùm, coi dùm tôi kinh Đại phương quảng Trung bộ, số mấy quên rồi, vô đó rà thấy trong đó có nói cái đó. Bây giờ làm sao mình có được tĩnh giác chi là mình ổn định được ba hành. Ổn định được ba hành là sao ta? Ổn định thân hành, khẩu hành và ý hành (tâm hành).
Ổn định thân hành là gì? Tức là hơi thở vào ra, ổn định cách nào? Nghe cho kỹ nè, danh sắc luôn có quan hệ hỗ tương nhau, nói gọn lại là danh sắc luôn có mối tương quan rất là chặt chẽ với nhau, nhớ cái này nha. Khi ta tập trung hơi thở, tập trung tinh thần theo dõi hơi thở, khi ta tập trung tinh thần theo dõi hơi thở thì càng lúc cái tâm của ta nó càng lắng lại, tâm nó càng lắng thì hơi thở nó càng nhẹ, càng tế. Mà cái tâm nó càng tế thì hơi thở nó càng tế thì tâm nó càng lắng. Mà cái tâm nó càng lắng thì hơi thở nó càng tế. Mà hơi thở nó càng tế thì tâm nó càng lắng.
Ngài Xá lợi phất Ngài ví dụ giống như người đánh chuông, tiếng chuông lúc mới đánh cái bon nó lớn lắm, mình có thể mình tỉnh bơ, mình lơ là mà vẫn nghe được; nhưng mà khi tiếng chuông nó còn lại cái dư âm, dư hưởng, tiếng ngân càng lúc càng nhỏ dần thì để nghe được tiếng ngân sau cùng ấy, ta phải lắng tai mà cả lắng tâm nữa quí vị, lắng tai mà cả lắng lòng. Các vị nghe hiểu không?
Thì hơi thở cũng vậy, lúc mà mình đang lăng xăng lăng xăng thì hơi thở mình nó đang thô, nó dồn, nó dập, nó nặng, nó mệt lắm, nhưng mà mình ngồi một lát nó ổn định rồi, ổn định huyết áp, ổn định nhịp tim mạch lạc, ổn định hết thì khi hơi thở nó ổn định rồi thì cái tâm của mình nó cũng ổn định theo. Đây là lý do vì đâu nhiều khi bác sĩ ế vắng khách mà mình vào bác sĩ không có coi mạch liền mà để cho mình ngồi một lát dầu là đông hay tây y. Đặc biệt là đông y, khách vắng hoe mà mình vô họ không có bắt mạch liền, ổng để cho mình ngồi một lát, ổng cho mình ly nước, còn không nữa là ổng hỏi chuyện ba đồng bảy đổi, hỏi tùm lum để cho mình lắng xuống, để cho cái mệt sinh lý và rối rắm của tâm lý nó lắng xuống, lúc đó bắt mạch nó mới chính xác, hiểu chưa? Đó là một cái minh chứng cho thấy rằng "Ồ thì ra có một cái mối tương quan rất là chặt chẽ giữa tâm và vật, giữa danh và sắc".
Cho nên cái chuyện đầu tiên muốn ổn định nội tâm, chuyện đầu tiên là cái gì ta? Đó là ổn định thân hành; ngồi xuống hít sâu thở chậm lúc đầu hơi thở còn thô, sau đó càng về khuya thì hơi thở nó càng tế, bây giờ ổn định rồi, hơi thở nó càng tế thì tâm nó tế theo, bởi vì muốn theo dõi hơi thở mà nhẹ, nhỏ, ngắn thì cái tâm mình phải lắng lòng, lắng xuống mình mới theo nó được. Trong room có hiểu không ta? Nếu mình muốn nghe một cái âm thanh nhỏ, một cái âm thanh nào đó quá nhỏ thì gần như mình phải rút cái người mình lại tập trung hết vào trong cái lỗ tai của mình để mình nghe.
Ở đây cũng vậy, cái tâm nó phải lắng lòng để mà ghi nhận hơi thở, như vậy đó là chuyện đầu tiên là hơi thở thân hành, làm an tịnh thân hành bằng cách đó. Hễ mà cái hơi thở là sắc pháp mà nó lắng thì cái tâm mình là cái danh pháp nó lắng theo. Cái hơi thở nó là sắc pháp đúng không? Mà nó trở nên vi tế, nhỏ nhiệm thì cái tâm mà theo dõi nó cũng vi tế, nhỏ nhiệm. Chỉ một chiêu đầu tiên thôi đó là an tịnh thân hành là cái tâm nó đã tế theo.
Cái thứ hai là an tịnh khẩu hành tức là tầm, tứ. Tầm, tứ ở đây tức là không có dùng cái đầu của mình để mà suy nghĩ chuyện này, chuyện kia.
Tầm là gì? Tầm là cái sự truy tìm cái đề tài, đề mục.
Còn tứ là quan sát, chăm chút vô cái đề mục đó, giống như tầm là cái động tác bay từ xa đến của con ong. Còn tứ là cái động tác nhiễu quanh cái hoa.
Thì ở đây hành giả hạn chế cái chuyện đi tìm cái ngoại trần để mà bận tâm, thì đó gọi là tu tập khẩu hành là chỗ đó đó. Còn trong đó giải thích tại sao tầm tứ được gọi là khẩu hành là bởi vì muốn nói năng phát biểu, biểu cảm, biểu lộ thì người ta có tầm, có tứ trước.
Cho nên muốn ổn định khẩu hành ở đây có nghĩa là mình hạn chế cái chuyện mà đi tìm ngoại trần, hạn chế cái chuyện mà đi tìm cái để nhìn, tìm cái để nghe, tìm cái để nghĩ; không có chuyện đó, tập trung vô cái trước mắt, thí dụ như mình đang đi kinh hành thì tập trung từng bước chân thiền hành, thiền tọa thì hơi thở, thí dụ như vậy. Đó gọi là ổn định về cái khẩu hành.
Còn ổn định cái tâm hành ở đây là thọ tưởng. Ổn định thọ tưởng là sao? Cái này nó sâu kinh lắm, chúng ta cả một đời chúng ta chạy theo cái cảm giác, các vị có biết không? Từ một đứa bé nằm ngửa trong tay mẹ cho tới một ông già 98 tuổi sắp xuống lỗ, đời sống chúng ta là một chuỗi dài của những tháng ngày theo đuổi cảm giác, cảm xúc. Đấy! lăng xăng, lăng xăng, đi kiếm cảm giác này, đi kiếm cảm giác kia. Ngồi lâu quá nó mỏi rồi mới đổi, đổi tư thế đó là buông bắt cảm xúc. Suy nghĩ chuyện này bực mình, suy nghĩ chuyện kia thấy vui, đó là buông bắt cảm xúc cả đời.
Trong khi đó hành giả thì không, hành giả xem tất cả những cảm giác khó chịu và dễ chịu là những người khách bên thềm, anh đến anh đứng trước nhà tôi, tôi không có ra bắt chuyện với anh, tôi cũng không có mời trà nước, tôi cũng không có gây gỗ anh, tôi cũng không có tống khứ anh mà tôi cũng không có mời gọi anh. Bởi vì tống khứ anh thế nào cũng sanh chuyện, mà mời gọi anh, anh ở lại lâu quá cũng có chuyện, hãy xem anh như là một người khách trú mưa.
49:38
3/09/2019 - 08:31 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Tôi nói không biết là bao nhiêu lần mà bà con trong room này cứ đơ ra đó, mình tu là mình tu bằng cái tâm trạng của anh chàng tài xế xe bus chớ đừng có tu bằng cái tâm trạng của anh tài xế taxi. Bởi vì đối với anh tài xế taxi, ảnh rất là quan tâm đến chuyện khách nhiều, khách ít, bửa nay có khách kêu hay không? Rồi khách đó có dễ thương hay không? Khách đó là khách nam hay nữ, đẹp hay là xấu, v v..., bửa nào hỏng có khách buồn. Còn cái ông chạy xe bus, nhất là xe bus của hãng tư nhân hay của chính phủ gì hỏng cần biết, miễn là chạy xe bus thì đi ngang cái trạm thấy có khách đón thì ngừng hoặc có khách đòi xuống thì ngừng. Còn cái trạm nào mà không có khách xuống hoặc là không có khách đón thì đi luôn. Có hiểu không ta? Tôi đang giảng, trong room có còn nghe không? Tức là xem tất cả chỉ là những người khách, mà khách trú mưa thôi quí vị. Khách trú mưa nghĩa là nhà mình có mái hiên de ra thì mưa nó tấp vô, hết mưa thì nó đi mất thôi; chứ mình hỏng có màng mở cửa cái, mở cửa sổ, thò đầu ra xua đuổi hay mời gọi trà nước, bánh trái, "no, no". Hễ mà xua đuổi nó là coi chừng nó cũng có chuyện, nó lại sanh chuyện; mà mình mời gọi nó thì cũng có chuyện, tốt nhất là để yên, im ỉm cánh cửa cái hoặc cửa sổ thì mưa hết khách tự động nó đi. Tức là duyên tụ và duyên tán. Đủ duyên thì khách ghé, khách ở lại; hết duyên khách bỏ, khách đi, nha.
Thì hành giả ở đây cũng vậy, tu tập ổn định cái tâm hành có nghĩa là đối với các thọ thấy nó tới biết là nó tới, đang bị bệnh đau quá thay vì thấy rằng "Trời ơi sao nó đau quá, tại sao cái thân tôi nó khổ quá!", "Tại sao tôi bị xui xẻo? Tại sao đời tôi bất hạnh?" Bỏ cái "Tôi" đi, chỉ cần nhớ là "Cơn đau đang có mặt" trong kinh Đức Phật dạy như vậy. Thay vì ghi nhận "Tôi đang đau, đây là cơn đau trong thân xác của tôi", thì hành giả phải nên ghi nhận đơn giản rằng "Cơn đau đang có mặt, khổ thọ đang có mặt". Khi mà mình thấy rằng khổ thọ đang có mặt, nó hay hơn rất là nhiều so với cái chuyện là "Tôi đang bị đau, cơn đau này nằm bên trong cơ thể tôi". Bởi vì lúc đó mình đau tới hai lần lận, đau từ cái chứng bệnh mà nó đau qua tới tâm lý nữa, nó nặng lòng thêm cái khoảng "Tôi" và "của Tôi". Các vị hiểu không? Trong khi ở đây mình chỉ đơn giản xem tất cả cảm giác, cảm thọ chỉ là những người khách.
Đấy! "Anh đứng dưới mái hiên nhà tôi, tôi không mời gọi anh mà tôi cũng không có tống khứ, xua đuổi anh". Trong khi đó mình hỏng có tu hành, không có học giáo lý thì cái gì nó khó chịu, mình tìm cách mình tống đầu nó đi, tống khứ đuổi đầu nó đi. Còn cái nào mình thấy dễ thương, mình mời gọi, mình tìm cách mình giữ nó lại. Bản chất đời sống là vô ngã quí vị à. Muốn giữ nó, nó không thèm ở; muốn đuổi nó đi, nó không thèm đi. Khổ quá. Đời nó như vậy đó quí vị, nha. Theo tình thì tình phụ, phụ tình thì tình theo, cái đó là luật của vũ trụ, nha.
Cho nên đừng có ý xua đuổi khi anh tu tập thiền định, thiền quán tứ niệm xứ không cần biết, chỉ cần anh có cái ý mà anh mong đợi một cái cảm giác, cảm xúc nào đó hãy đến với anh hoặc là đừng lìa khỏi anh thì một là nó không đến, mà hai nữa là nó đến nó sẽ đi rất là lẹ. Mà anh có ý trốn chạy, e sợ một cái cảm xúc nào đó thì một là nó sẽ đến rất nhanh và nó ở lì đó nó không có đi. Tin tôi đi. Ai là hành giả sẽ thấy cái này: Khi anh không có cái lòng mà muốn trốn chạy nó, không có cái lòng mời gọi trông đợi nó thì nó sẽ đến đi một cách rất là tự nhiên. Nhưng anh có lòng tống khứ nó, nó không thèm đi, anh có cái lòng muốn giữ nó lại nó không thèm ở. Đó là cái luật, nha. Chỉ có hành giả tứ niệm xứ mới hiểu thế nào là vô ngã, vô thường. Đó là tu tập cái thọ đó.
53:35
(còn tiếp)
11/09/2019 - 07:50 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
KTC 6.85 Mát Lạnh
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể chứng ngộ vô thượng thanh lương. Thế nào là sáu?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
- khi nào tâm cần hạn chế, khi ấy không hạn chế tâm;
- khi nào tâm cần phải phấn chấn, khi ấy, lại không phấn chấn tâm;
- khi nào tâm cần phải làm cho hoan hỷ, khi ấy lại không làm tâm hoan hỷ;
- khi nào tâm cần phải trú xả, quán sát, khi ấy lại không làm cho tâm trú xả, quán sát;
- xu hướng về hạ liệt;
- hoan hỷ thân kiến.
3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể chứng ngộ vô thượng thanh lương. Thế nào là sáu?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
- khi nào tâm cần phải hạn chế, khi ấy hạn chế tâm;
- khi nào tâm cần phải phấn chấn, khi ấy phấn chấn tâm;
- khi nào tâm cần phải làm cho hoan hỷ, khi ấy làm cho tâm hoan hỷ;
- khi nào tâm cần phải trú xả, quán sát khi ấy làm tâm trú xả, quán sát;
- xu hướng về thù thắng;
- hoan hỷ Niết-bàn.
--ooOoo--
Rồi kinh 85 phải giải thích nè. Kinh 85 là kinh Mát lạnh, nội dung kinh này là gì? Muốn hiểu kinh này chúng ta dùng một hình ảnh như thế này: Một cái người làm ruộng họ phải biết rất rõ cái miếng ruộng của họ lúc nào là cần vô nước, mà lúc nào là lúc cần xả nước họ phải biết rõ. Không biết trong room tôi nói có hiểu không, ở đây có nhiều người dân phố, dân chợ chắc nghe không hiểu. Cần vô nước có nghĩa là khi ruộng nó khô quá là mình phải cho nước nó vô để cho lúa nó có thể sống được. Nhưng mà có những trường hợp mà mực nước nó cao quá không tốt cho lúa, một là nó làm chậm sức phát triển, hai là nó làm cho lúa úng, lúa chết. Cho nên mình phải biết rõ lúc nào cho nước vô, lúc nào cho nước ra, mà nếu vô là vô cao bao nhiêu, mà nếu cho nước ra thì cạn bao nhiêu. Là chỉ riêng mấy cái ruộng thôi đó phải biết mực nước.
Chưa kể là, mình thấy vô nước biển không? Vô nước biển, vô serum, truyền huyết thanh thì khác, mình thấy có lúc có những trường hợp mà mình phải cho nước biển nó đi nhanh một chút, có những trường hợp phải cho nó đi thiệt là chậm, bị bệnh nhân nó run, lạnh quá phải chậm lại một chút, thí dụ như vậy. Do một tình trạng sức khỏe như thế nào đó mà mình phải cho nước biển nó đi nhanh một chút, điều chỉnh cái nút nằm trong cái dây truyền nước biển.
Thì nãy giờ mình thấy làm ruộng hoặc là vô nước biển là mình phải có khả năng điều chỉnh, biết lúc nào nên tăng, nên giảm, nên thêm, nên bớt.
Ở đây cũng vậy, nội tâm tu hành y chang như vậy, thì ở trong kinh Thất giác chi mình học năm ngoái đó, toàn bộ đời sống của chúng ta, chúng ta chỉ có hai thứ tâm trạng mà mình cứ vật lộn với nó hoài thôi, vật lộn suốt như vậy. Một là cái tâm nó bị thiếu lửa, nó không đủ sức phấn chấn, không đủ sự năng động, tích cực, mà mình sống bệ rạc, sa đà, tiêu cực, không có đủ sức vươn lên, hướng tới, trong trường hợp đó cái tâm của hành giả cần phải được kéo lên, cần phải được vực dậy.
Còn có trường hợp mà hành giả bung xung quá, năng động quá mức cần thiết thì lúc đó nó cần phải được làm cho tĩnh lặng lại, calm down lại, ổn định lại, bình ổn lại. Mà mình nói suông vậy, quí vị tưởng tượng ổn là ổn cách nào? Kinh này Phật thuyết cho người hữu duyên, khi Ngài nói vậy người ta nghe người ta hiểu.
Còn bây giờ như mình đây, nói chung chung là hiểu rồi đó, lúc nào cái tâm mình nó tuột xuống thấp quá thì mình kéo nó lên, vực nó dậy. Còn khi nào mà cái tâm nó bung xung, nó tích cực quá đáng, năng động quá mức, thì lúc đó mình tìm cách mình bình ổn nó. Bình ổn bằng cách nào? Trong Tương ưng kinh, Đức Phật Ngài dạy rất rõ, khi nào cái tâm mà bị tuột dốc, thiếu cái sức năng động, không đủ tinh tấn thì vị tỳ kheo phải vận dụng ba cái giác chi là trạch, cần, hỷ.
Trạch là phải dùng trí văn, tư, tu. Lúc đó bao nhiêu kiến thức Phật Pháp, bao nhiêu khả năng suy nghĩ, tư duy phải biết xài, bởi vì, tôi không nói dùm thiên hạ, mà tôi chỉ nói trường hợp của tôi thôi. Tức là có bao nhiêu là vấn đề giáo pháp mà khi mình nghĩ tới, mình sẽ qua đó tìm thấy sự phấn chấn. Thí dụ mình suy tư, mình nghĩ tại sao mà nó như vậy? Rồi mới đi lục lạo, đi tra cứu, đi tìm hiểu. Tìm gặp được nó mừng, nó đã lắm, nó giống như là một mắc tre chẻ được cái đó nó thông chỗ khác, nó sướng lắm. Đó là một cái.
Cái thứ hai, trong lúc mà tìm không ra, nó căng cái đầu ra, thì coi như mình đã tự cứu mình ra khỏi cái tình trạng mà gọi là ê chề, chán chường, buông xuôi, tiêu cực. Tự mình kéo lên bằng cách đó, là phải dùng trí, tức là trạch giác chi. Và phải suy xét nữa, suy xét coi tại sao mà như vậy? Có cái gì đó trong đời sống, trong sinh hoạt của mình mà cần được điều chỉnh? Để làm được chuyện đó, dứt khoát quí vị phải có trí tuệ. Cái đó gọi là trạch pháp giác chi. Phải điều chỉnh cái đó, tại sao vậy ta? Mà ở đây, muốn điều chỉnh là phải cần ba thứ trí là văn, tư, tu. Bà con mà dốt giáo lý thì chỗ này tôi đâu có chỉ được. Cho nên nói vắn tắt là phải có văn, tư, tu; phải có trạch pháp giác chi.
30:29
12/09/2019 - 09:18 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cần, cần ở đây là tinh tấn. Lúc đó mình phải gượng dậy thôi, bởi vì mình nhớ một vài chuyện để mình tinh tấn. Thứ nhất, cơ hội để mình tinh tấn không có nhiều lắm đâu, chỉ nhớ bao nhiêu đó, nếu một người có cơ duyên tu hành là chỉ nhớ có một câu này đủ rồi. Chỉ cần nhớ là "Cơ hội để mình siêng năng không có nhiều". Tại sao vậy ta? Là bởi vì chính ở trong Tăng chi bộ, Đức Phật Ngài dạy rất rõ rằng: "Này các tỳ kheo, các ông phải thường xuyên tư niệm, tâm niệm những điều sau đây để vực dậy cái nội tâm tu hành đang lui sụt…" Một là ngay bây giờ mình còn khỏe, còn trẻ, mình còn có thể ngồi như ý, mình có thể đi đứng như ý mà mình không nỗ lực tu tập, mai này mà nó liệt giường, liệt chiếu, đầu óc thì mụ mẫm, lú lẫn, cơ thể thì đau đớn, tê buốt, mỏi mệt, đau chỗ này, đau chỗ kia, nội tạng, ngoài da, tùm lum hết, thì nói chung trong một cái điều kiện sức khỏe của người già, người bệnh, mình không có còn tinh tấn được, mà bây giờ là thời điểm tốt nhất.
Tôi cũng nói rõ cho bà con, Kalama mà làm xong, người có lòng cầu giải thoát nên về đó thử đi, thử để thấy. Các vị có quyền đi các thiền viện khác, đi cho đã đi rồi về Kalama sẽ thấy một chuyện, đó là đợi tới già mà tu thiền là tu cái gì? Bây giờ mình đang khẩn cấp tìm một cái chỗ thích hợp để mà mình phát hiện ra một điều cực kỳ quan trọng, đó là bây giờ mình có thể ngồi một tiếng, hai tiếng; bây giờ mình có thể đi thiền hành một tiếng, hai tiếng; thiền tọa một tiếng, hai tiếng; bây giờ mình còn có thể ăn uống kiểu nào cũng được, ăn khổ, ăn cực gì cũng được, ăn rau rừng, uống nước suối cũng được, thí dụ như vậy . Nhưng sẽ có một ngày mình không có khả năng đi, ngồi, và ăn uống, sinh hoạt đơn giản như bây giờ nữa; mà lúc đó đi đâu cũng có nguyên một túi thuốc đi theo, đi đâu phải có khăn choàng cổ, khăn trùm đầu; đi đâu cũng có người nắm tay, xốc nách, dìu dắt, lên cái bậc thang hai, ba bậc thở hì hục, các vị tưởng tượng tu là tu cái gì?
Cho nên chuyện đầu tiên Đức Phật dạy "Này các tỳ kheo hãy tâm niệm như sau: Đây là thời điểm tốt nhất để ta tinh tấn khi mà cơ thể ta còn trẻ, còn khỏe, còn có thể làm theo lời dạy của Thế Tôn". Thứ hai, vị tỳ kheo tâm niệm rằng ngay bây giờ cái điều kiện sinh hoạt của ta như là khất thực, hoặc là bệnh hoạn, thuốc men, cốc liêu có người hộ trì, ngay bây giờ những điều kiện vật chất còn tốt mà mình không tranh thủ, biết đâu có một ngày những điều kiện đó không còn nữa thì tu kiểu gì? Tu kiểu gì đây? Đó là điều thứ hai.
Điều thứ nhất là sức khỏe của mình, tình trạng này mình không tận dụng nó mà mình đợi tới già mình tu đó là một suy nghĩ tâm thần, một suy nghĩ mất trí, một suy nghĩ ngu xuẩn, bởi vì lúc đó hỏng có làm được gì hết. Thời điểm tốt nhất chính là lúc này, chính là lúc này, các vị hỏi tôi bao giờ? Tôi nói "ngay lúc này". Còn quí vị nói quí vị bận thì tôi có hai cách nói, một thì đi ch đi; cách hai, nếu mà quí vị bận thì chỉ còn có một cách là tranh thủ trong thời gian sớm nhất như có thể. Chớ còn nói đợi tới tuổi già thì vô phương.
Cái thứ hai, bây giờ cái điều kiện sinh hoạt, điều kiện vật chất nó còn đang ok mà mình không tranh thủ, mai mốt mà nó khó khăn rồi là chỉ có kêu trời, nha.
Cái thứ ba nữa là bây giờ Tăng chúng còn đang ok chưa có chia phe rẽ phái, Tăng chúng còn đang hòa hợp thanh tịnh. Thí dụ bây giờ Miến Điện, ở đâu tôi không dám ý kiến, còn Miến Điện bây giờ quí vị muốn tìm thấy hình ảnh một nhóm đông mà năm, ba chục, một, hai trăm tỳ kheo thanh tịnh mà ngồi làm lễ bố tát phát lồ rất là dễ, dễ ẹc. Bên Miến Điện có một điểm mà mỗi lần nhắc tôi chỉ quì lạy Phật giáo Miến Điện, đây là cái đều mà phật tử Việt Nam không mấy ai biết hoặc là không muốn biết, không thèm biết hoặc không thể biết. Đó là, đặc điểm của Phật giáo Miến Điện là ông sư Miến Điện không biết giáo lý thì im, ông sư Miến Điện theo tôi biết là không có nói ẩu, không có lập phe, lập phái. Chẳng hạn mình nói thẳng như Phật giáo Thái Lan đi, nói nghiêm khắc, rồi là kỷ cương toàn là trên hình thức, diễn, đừng có nghĩ tôi ác ý, đó là sự thật thôi. Phải nói là về mặt nghi thức, hình thức lễ nghi là phải nói Thái Lan là number one, đúng, nhưng mà về mặt tôn giáo cẩn thận là bởi Thái Lan là một cái chỗ mà chỉ cần mình có chỗ dựa, chỗ dựa mình là một sư phụ nổi tiếng hoặc là các đại gia, thì mình hoàn toàn mình có thể bày ra những pháp môn tu gọi là thanh thản. Bên Thái Lan là một cái xứ mà giáo chủ nhiều vô địch, thí dụ như gần đây mình thấy Thái Lan có cái pháp môn Ahosi mà Việt Nam mê như điếu đổ, tu đó là tu trục trược, tu để mà giải phóng ác nghiệp tiền thân, nghe đã lắm.
Nhưng Miến Điện thì không, Miến Điện tại vì cách giáo dục Tăng đoàn của họ nó ngộ lắm, anh dốt thì anh im, mà anh nói được là anh nói có sách, mách có chứng và từ đó nó dẫn tới cái chuyện này, bên Miến Điện Tăng chúng không có nói xấu nhau. Thí dụ như bây giờ Ngài Sitagu không có thích Ngài Pa Auk, thì khi hỏi về Ngài Pa Auk thì Ngài tìm cách Ngài tránh, Ngài nói về Ngài Pa Auk rất là tôn kính, nhưng Ngài tránh nói nhiều về Ngài Pa Auk. Thí dụ Ngài Pa Auk không có thích Ngài Nandamala thì Ngài cũng tìm cách Ngài tránh, nhưng mà trước khi tránh hẳn cái đề tài về vị kia thì Ngài cũng nói rất là đàng hoàng, chứ không có cái chuyện là vì cái tình cảm riêng tư cá nhân, mình ghét cái ông đó là mình phủ nhận toàn bộ kiến thức Phật học của ông đó, mình không có lường được cái bậy đó đâu. Bởi vì sao? Vì ông kia dầu gì ổng cũng có tiếng nói trong thiên hạ, mà khi mình phủ nhận như vậy phật tử họ hoang mang họ biết đi về đâu, vì họ tin mình mà. Như ông sư A ổng có một nhóm phật tử mà ổng ghét ông sư B quá ổng mới mạt sát, mạ lị, dè bỉu, ổng chà đạp ông kia, mình nghĩ cái đó là chuyện cá nhân. Sai, cái đó hỏng phải chuyện cá nhân. Khi mà ổng chà đạp như vậy, từ đây về sau những người họ đến đây họ nghe ông B, họ nghe kiểu gì đây? Phật giáo Miến Điện không có vụ đó, chuyện riêng là riêng, họ xử việc chứ họ không có xử người. Tôi không có ưa anh, đúng, nhưng mà nếu anh giảng đúng, tôi vẫn nói về anh bằng tất cả sự trân trọng.
Cho nên cái chuyện mà ngày nào Tăng chúng còn hòa hợp thanh tịnh, mình phải ghi nhận đó là thời điểm bằng vàng, bằng vàng quí vị à. Chớ các vị đừng có tưởng "Ô tôi là cư sĩ tóc tai tùm lum, cái chuyện Tăng chúng hòa hợp kệ nó mắc mớ gì tôi, tôi chỉ quởn quởn vô chùa cúng dường". Sai bét. Tăng chúng mà chia rẽ nhau rồi nạn nhân đầu tiên là mấy ông sư, nạn nhân tiếp theo là quí vị, vì Tăng chúng chia rẽ không còn hòa hợp thanh tịnh nữa thì sao? Là sẽ có năm phe, bảy phái và giáo lý manh mún rời rạc, ông nào cũng làm giáo chủ hết các vị tu theo ai? Cứ là mình mới vừa theo Ngài Hộ Pháp được có mấy ngày là bắt đầu các vị kia chửi Ngài không còn gì, mà tôi cư sĩ vợ con đùm đề mà tôi đâu có đủ thời gian tôi biết Ngài Hộ Pháp nói sai hay nói trúng, ai mà biết, tôi nghe vậy tôi bắt đầu tôi hoang mang; cái tôi bỏ Ngài Hộ Pháp tôi chạy qua bên Ngài Viên Minh, tôi mới vừa qua Ngài Viên Minh là bị người ta chửi tan nát, tôi mới hoang mang; tôi mới chạy qua bên Ngài Bửu Chánh-Phước Sơn mà tôi đụng đâu cũng nghe thị phi hết; cuối cùng tôi đi về đâu, quí vị tưởng tượng đi? Cho nên nó kẹt lắm. Cái sự hòa hợp thanh tịnh của chúng tăng vô cùng và vô cùng quan trọng và đừng có nghĩ rằng đó là chuyện của chư tăng không có mắc mớ gì cái đám có tóc. Sai. Khi chư tăng không còn hòa hợp thanh tịnh thì nạn nhân đầu tiên chính là mấy ông sư, nạn nhân tiếp theo là cư sĩ. Nhớ nha, cái này lớn chuyện lắm nha.
Cho nên cái chuyện thứ hai, vị tỳ kheo phải tâm niệm rằng hôm nay ta còn trẻ, còn khỏe, ta phải tinh tấn. Tiếp theo bây giờ là thời điểm mà ta còn dễ dàng những điều kiện vật chất.
Thứ ba, đây là thời điểm Tăng chúng còn hòa hợp thanh tịnh.
Thứ tư là thiên hạ nhân gian chưa lâm cảnh loạn lạc. Bây giờ xã hội nó bị rối rắm vì chiến tranh, mình thấy cái xã hội mà buôn lậu, xã hội mà sa đà đạo đức chắc chắn có ảnh hưởng cửa thiền, đừng nói với tôi là không có, nha, chắc chắn là có. Tôi đang lo một chuyện mai này khi mà cái làn sóng kinh tế ở Miến điện nó trổi dậy, rồi cái sự cuốn hút cám dỗ từ nhịp sống vật chất nó sẽ từ ở ngoài phố tràn vô chùa thì mọi sự nó không còn như thuở nào nữa. Mà may đó là sự xáo trộn về sự sinh hoạt thường nhật, tôi chưa nói là chinh chiến can qua khói lửa binh đao các vị hiểu không?
Nên trong kinh Đức Phật Ngài dạy đây là bốn thời điểm mà vị tỳ kheo phải tâm niệm:
- Một, đây là lúc ta khỏe ta không nỗ lực mà tới lúc khác mà nó bệnh, nó già là chết, là tiêu.
- Thứ hai, đây là cái lúc mà ta còn có thể có được điều kiện sinh hoạt dễ dàng mà ta không tranh thủ mai mốt khó khăn là tiêu.
- Cái thứ ba, đây là thời điểm mà chúng tăng còn thanh tịnh hòa hợp, nếu ta không tranh thủ lúc này mai mốt mà tăng chúng chia rẻ, tanh bành té bẹ ra thì coi như đời ta cũng xong.
- Cái thứ tư, đây là cái lúc mà thiên hạ nhân gian còn đang thái bình, đây là thời buổi xã hội còn ok, còn dung túng, còn dung chứa được mình, mai mốt xã hội không còn thái bình nữa thì trong đó một trong những nạn nhân đầu tiên chính là những người tu hành họ không còn cơ hội nữa; các vị biết mà, đừng có ép tôi nói, có những cái bối cảnh đất nước, bối cảnh xã hội mà người tu không dễ dàng tí nào đâu nha, người ta trên 18 tuổi mà chuyện đó bắt người ta nói ra đi ch đi.
40:47
13/09/2019 - 07:21 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cho tôi nói cái này nó hơi lạc đề chút, tại sao mình ở gần cái người thông minh? Thế nào là một người đầu bếp thông minh? Là họ giỏi lắm, họ có thể linh hoạt mùa nào thức nấy, mình bỏ ăn, mình bị nhạt miệng họ tìm đủ cách để cho mình ăn được, đó là người đầu bếp thông minh. Một thằng bạn thông minh là có thể nó đủ thứ chuyện để mà nó chia xẻ cho mình khi mà mình không tìm được sức sống. Một người vợ thông minh, một người chồng thông minh, một người em thông minh, một người anh thông minh nói chung là chính cái thông minh nó giúp cho ta tìm ra được những lối thoát, cho nên đó là trạch pháp giác chi.
Còn cần giác chi thiếu nó không được vì nó thông minh mà nó lười quá, mình tìm ra được con đường rồi, tìm ra rồi, cầm bí kíp cẩm nang trong tay mà nó cứ đơ ra, nó nằm dật dờ dật dựa vậy thì cũng không được. Cho nên có trí huệ nhưng phải có tinh tấn, phải có cái sức bật.
Cái thứ ba nữa đó là hỷ giác chi, có nghĩa là có đủ nguồn vui đạo vị như nãy trong bài kinh trước học rồi, có đủ nguồn vui đạo vị cần móc ra, có nhiều cái vui lắm, ngồi chán đi kinh hành, chán kinh hành nhảy vô ngồi, chán quá đi trình pháp, chán quá vô rút cuốn kinh ra đọc; chán quá đi ra ngoài tỉa cây, tưới kiểng, quét sân chút. Dĩ nhiên vừa làm vừa chánh niệm nhưng phải đổi cảnh miễn sao cho nó vui, kiếm cái gì mà mình thấy nó vui mình nhào ra mình làm, còn mà bí quá lên nói thiền sư một tiếng xách cái túi vọt. Đi lên đảnh lễ bảo tháp, đảnh lễ cây bồ đề, thăm núi, thăm đồi, thăm con đường đất, thăm một ngôi làng kế bên, ra sông, ra suối cho cái đầu óc nó co dãn chút xíu rồi trở về tu tiếp. Bởi vì mỗi người có nhiều kiểu tìm niềm vui cho mình, niềm vui động và niềm vui tĩnh.
Niềm vui động có nghĩa là chạy ra ngoài kiếm thầy, kiếm bạn, kiếm chỗ lễ bái, cầu nguyện, khấn khứa, lạy lục, đi vãng cảnh.
Còn niềm vui tĩnh là quay về với chính mình, với cái đời sống nội tại miễn là có được hỷ giác chi.
Còn khi nào mà tinh thần mà nó bung xung, năng động mà đến mức manh động luôn thì mình phải xài đến ba cái tĩnh, định, xã; tĩnh giác chi, định giác chi và xã giác chi.
Tĩnh giác chi là cái sự yên tĩnh của danh pháp, là sao ta? Sự yên tĩnh của danh pháp nó đến từ mấy nguồn, mình thấy rằng toàn bộ hoạt động của chúng ta gói gọn trong ba hành, tức là thân hành, khẩu hành và ý hành.
Thân hành của mình là hơi thở ra vào; tâm hành của mình là thọ, tưởng; khẩu hành của mình là tầm, tứ. Ở đây thế nào trong room cũng có mấy cái mặt đơ đơ nói cái kinh nào giảng lạ vậy ta? Làm ơn ghi dùm, coi dùm tôi kinh Đại phương quảng Trung bộ, số mấy quên rồi, vô đó rà thấy trong đó có nói cái đó. Bây giờ làm sao mình có được tĩnh giác chi là mình ổn định được ba hành. Ổn định được ba hành là sao ta? Ổn định thân hành, khẩu hành và ý hành (tâm hành).
Ổn định thân hành là gì? Tức là hơi thở vào ra, ổn định cách nào? Nghe cho kỹ nè, danh sắc luôn có quan hệ hỗ tương nhau, nói gọn lại là danh sắc luôn có mối tương quan rất là chặt chẽ với nhau, nhớ cái này nha. Khi ta tập trung hơi thở, tập trung tinh thần theo dõi hơi thở, khi ta tập trung tinh thần theo dõi hơi thở thì càng lúc cái tâm của ta nó càng lắng lại, tâm nó càng lắng thì hơi thở nó càng nhẹ, càng tế. Mà cái tâm nó càng tế thì hơi thở nó càng tế thì tâm nó càng lắng. Mà cái tâm nó càng lắng thì hơi thở nó càng tế. Mà hơi thở nó càng tế thì tâm nó càng lắng.
Ngài Xá lợi phất Ngài ví dụ giống như người đánh chuông, tiếng chuông lúc mới đánh cái bon nó lớn lắm, mình có thể mình tỉnh bơ, mình lơ là mà vẫn nghe được; nhưng mà khi tiếng chuông nó còn lại cái dư âm, dư hưởng, tiếng ngân càng lúc càng nhỏ dần thì để nghe được tiếng ngân sau cùng ấy, ta phải lắng tai mà cả lắng tâm nữa quí vị, lắng tai mà cả lắng lòng. Các vị nghe hiểu không?
Thì hơi thở cũng vậy, lúc mà mình đang lăng xăng lăng xăng thì hơi thở mình nó đang thô, nó dồn, nó dập, nó nặng, nó mệt lắm, nhưng mà mình ngồi một lát nó ổn định rồi, ổn định huyết áp, ổn định nhịp tim mạch lạc, ổn định hết thì khi hơi thở nó ổn định rồi thì cái tâm của mình nó cũng ổn định theo. Đây là lý do vì đâu nhiều khi bác sĩ ế vắng khách mà mình vào bác sĩ không có coi mạch liền mà để cho mình ngồi một lát dầu là đông hay tây y. Đặc biệt là đông y, khách vắng hoe mà mình vô họ không có bắt mạch liền, ổng để cho mình ngồi một lát, ổng cho mình ly nước, còn không nữa là ổng hỏi chuyện ba đồng bảy đổi, hỏi tùm lum để cho mình lắng xuống, để cho cái mệt sinh lý và rối rắm của tâm lý nó lắng xuống, lúc đó bắt mạch nó mới chính xác, hiểu chưa? Đó là một cái minh chứng cho thấy rằng "Ồ thì ra có một cái mối tương quan rất là chặt chẽ giữa tâm và vật, giữa danh và sắc".
Cho nên cái chuyện đầu tiên muốn ổn định nội tâm, chuyện đầu tiên là cái gì ta? Đó là ổn định thân hành; ngồi xuống hít sâu thở chậm lúc đầu hơi thở còn thô, sau đó càng về khuya thì hơi thở nó càng tế, bây giờ ổn định rồi, hơi thở nó càng tế thì tâm nó tế theo, bởi vì muốn theo dõi hơi thở mà nhẹ, nhỏ, ngắn thì cái tâm mình phải lắng lòng, lắng xuống mình mới theo nó được. Trong room có hiểu không ta? Nếu mình muốn nghe một cái âm thanh nhỏ, một cái âm thanh nào đó quá nhỏ thì gần như mình phải rút cái người mình lại tập trung hết vào trong cái lỗ tai của mình để mình nghe.
Ở đây cũng vậy, cái tâm nó phải lắng lòng để mà ghi nhận hơi thở, như vậy đó là chuyện đầu tiên là hơi thở thân hành, làm an tịnh thân hành bằng cách đó. Hễ mà cái hơi thở là sắc pháp mà nó lắng thì cái tâm mình là cái danh pháp nó lắng theo. Cái hơi thở nó là sắc pháp đúng không? Mà nó trở nên vi tế, nhỏ nhiệm thì cái tâm mà theo dõi nó cũng vi tế, nhỏ nhiệm. Chỉ một chiêu đầu tiên thôi đó là an tịnh thân hành là cái tâm nó đã tế theo.
Cái thứ hai là an tịnh khẩu hành tức là tầm, tứ. Tầm, tứ ở đây tức là không có dùng cái đầu của mình để mà suy nghĩ chuyện này, chuyện kia.
Tầm là gì? Tầm là cái sự truy tìm cái đề tài, đề mục.
Còn tứ là quan sát, chăm chút vô cái đề mục đó, giống như tầm là cái động tác bay từ xa đến của con ong. Còn tứ là cái động tác nhiễu quanh cái hoa.
Thì ở đây hành giả hạn chế cái chuyện đi tìm cái ngoại trần để mà bận tâm, thì đó gọi là tu tập khẩu hành là chỗ đó đó. Còn trong đó giải thích tại sao tầm tứ được gọi là khẩu hành là bởi vì muốn nói năng phát biểu, biểu cảm, biểu lộ thì người ta có tầm, có tứ trước.
Cho nên muốn ổn định khẩu hành ở đây có nghĩa là mình hạn chế cái chuyện mà đi tìm ngoại trần, hạn chế cái chuyện mà đi tìm cái để nhìn, tìm cái để nghe, tìm cái để nghĩ; không có chuyện đó, tập trung vô cái trước mắt, thí dụ như mình đang đi kinh hành thì tập trung từng bước chân thiền hành, thiền tọa thì hơi thở, thí dụ như vậy. Đó gọi là ổn định về cái khẩu hành.
Còn ổn định cái tâm hành ở đây là thọ tưởng. Ổn định thọ tưởng là sao? Cái này nó sâu kinh lắm, chúng ta cả một đời chúng ta chạy theo cái cảm giác, các vị có biết không? Từ một đứa bé nằm ngửa trong tay mẹ cho tới một ông già 98 tuổi sắp xuống lỗ, đời sống chúng ta là một chuỗi dài của những tháng ngày theo đuổi cảm giác, cảm xúc. Đấy! lăng xăng, lăng xăng, đi kiếm cảm giác này, đi kiếm cảm giác kia. Ngồi lâu quá nó mỏi rồi mới đổi, đổi tư thế đó là buông bắt cảm xúc. Suy nghĩ chuyện này bực mình, suy nghĩ chuyện kia thấy vui, đó là buông bắt cảm xúc cả đời.
Trong khi đó hành giả thì không, hành giả xem tất cả những cảm giác khó chịu và dễ chịu là những người khách bên thềm, anh đến anh đứng trước nhà tôi, tôi không có ra bắt chuyện với anh, tôi cũng không có mời trà nước, tôi cũng không có gây gỗ anh, tôi cũng không có tống khứ anh mà tôi cũng không có mời gọi anh. Bởi vì tống khứ anh thế nào cũng sanh chuyện, mà mời gọi anh, anh ở lại lâu quá cũng có chuyện, hãy xem anh như là một người khách trú mưa.
49:38
3/09/2019 - 08:31 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Tôi nói không biết là bao nhiêu lần mà bà con trong room này cứ đơ ra đó, mình tu là mình tu bằng cái tâm trạng của anh chàng tài xế xe bus chớ đừng có tu bằng cái tâm trạng của anh tài xế taxi. Bởi vì đối với anh tài xế taxi, ảnh rất là quan tâm đến chuyện khách nhiều, khách ít, bửa nay có khách kêu hay không? Rồi khách đó có dễ thương hay không? Khách đó là khách nam hay nữ, đẹp hay là xấu, v v..., bửa nào hỏng có khách buồn. Còn cái ông chạy xe bus, nhất là xe bus của hãng tư nhân hay của chính phủ gì hỏng cần biết, miễn là chạy xe bus thì đi ngang cái trạm thấy có khách đón thì ngừng hoặc có khách đòi xuống thì ngừng. Còn cái trạm nào mà không có khách xuống hoặc là không có khách đón thì đi luôn. Có hiểu không ta? Tôi đang giảng, trong room có còn nghe không? Tức là xem tất cả chỉ là những người khách, mà khách trú mưa thôi quí vị. Khách trú mưa nghĩa là nhà mình có mái hiên de ra thì mưa nó tấp vô, hết mưa thì nó đi mất thôi; chứ mình hỏng có màng mở cửa cái, mở cửa sổ, thò đầu ra xua đuổi hay mời gọi trà nước, bánh trái, "no, no". Hễ mà xua đuổi nó là coi chừng nó cũng có chuyện, nó lại sanh chuyện; mà mình mời gọi nó thì cũng có chuyện, tốt nhất là để yên, im ỉm cánh cửa cái hoặc cửa sổ thì mưa hết khách tự động nó đi. Tức là duyên tụ và duyên tán. Đủ duyên thì khách ghé, khách ở lại; hết duyên khách bỏ, khách đi, nha.
Thì hành giả ở đây cũng vậy, tu tập ổn định cái tâm hành có nghĩa là đối với các thọ thấy nó tới biết là nó tới, đang bị bệnh đau quá thay vì thấy rằng "Trời ơi sao nó đau quá, tại sao cái thân tôi nó khổ quá!", "Tại sao tôi bị xui xẻo? Tại sao đời tôi bất hạnh?" Bỏ cái "Tôi" đi, chỉ cần nhớ là "Cơn đau đang có mặt" trong kinh Đức Phật dạy như vậy. Thay vì ghi nhận "Tôi đang đau, đây là cơn đau trong thân xác của tôi", thì hành giả phải nên ghi nhận đơn giản rằng "Cơn đau đang có mặt, khổ thọ đang có mặt". Khi mà mình thấy rằng khổ thọ đang có mặt, nó hay hơn rất là nhiều so với cái chuyện là "Tôi đang bị đau, cơn đau này nằm bên trong cơ thể tôi". Bởi vì lúc đó mình đau tới hai lần lận, đau từ cái chứng bệnh mà nó đau qua tới tâm lý nữa, nó nặng lòng thêm cái khoảng "Tôi" và "của Tôi". Các vị hiểu không? Trong khi ở đây mình chỉ đơn giản xem tất cả cảm giác, cảm thọ chỉ là những người khách.
Đấy! "Anh đứng dưới mái hiên nhà tôi, tôi không mời gọi anh mà tôi cũng không có tống khứ, xua đuổi anh". Trong khi đó mình hỏng có tu hành, không có học giáo lý thì cái gì nó khó chịu, mình tìm cách mình tống đầu nó đi, tống khứ đuổi đầu nó đi. Còn cái nào mình thấy dễ thương, mình mời gọi, mình tìm cách mình giữ nó lại. Bản chất đời sống là vô ngã quí vị à. Muốn giữ nó, nó không thèm ở; muốn đuổi nó đi, nó không thèm đi. Khổ quá. Đời nó như vậy đó quí vị, nha. Theo tình thì tình phụ, phụ tình thì tình theo, cái đó là luật của vũ trụ, nha.
Cho nên đừng có ý xua đuổi khi anh tu tập thiền định, thiền quán tứ niệm xứ không cần biết, chỉ cần anh có cái ý mà anh mong đợi một cái cảm giác, cảm xúc nào đó hãy đến với anh hoặc là đừng lìa khỏi anh thì một là nó không đến, mà hai nữa là nó đến nó sẽ đi rất là lẹ. Mà anh có ý trốn chạy, e sợ một cái cảm xúc nào đó thì một là nó sẽ đến rất nhanh và nó ở lì đó nó không có đi. Tin tôi đi. Ai là hành giả sẽ thấy cái này: Khi anh không có cái lòng mà muốn trốn chạy nó, không có cái lòng mời gọi trông đợi nó thì nó sẽ đến đi một cách rất là tự nhiên. Nhưng anh có lòng tống khứ nó, nó không thèm đi, anh có cái lòng muốn giữ nó lại nó không thèm ở. Đó là cái luật, nha. Chỉ có hành giả tứ niệm xứ mới hiểu thế nào là vô ngã, vô thường. Đó là tu tập cái thọ đó.
53:35
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)